Thú chơi câu đối Tết

 

Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê,cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.
Câu đối thường viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ ḷng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên:

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân bách hạnh hiếu vi tiên

Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết

Ở làng tranh Đông Hồ câu đối trên đă được cải biên chút ít và đa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ phúc, chữ thọ và đôi ba câu đối:

Từ thời xuân tại thủ
Ngũ phúc thọ vi tiên

Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phụng trên nền giấy điểm xuyến hoa, lá và chim muông.
Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành: “ấm hà tư nguyên” (Uống nước sông nhớ đến nguồn): “Đức lưu quang” (Đức chang hoà ánh sáng).

Dịp tết c̣n có các câu đối tức cảnh văn của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng.

Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có h́nh hai vị thần Thần Đồ Uất Luỹ treo hai bên cửa ngỏ. Đó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Độ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ,hễ quỹ nào “phá rào” đi hại dân th́ thần hoá phép trừ đi.Sau này việc treo bùa gổ “Đào phù” được thay bằng hai câu đối bên cửa.

Đời sống khấm khá dần, mỗi người tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào câu đối những ư tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đă trở nên phổ biến, khắp kinh kỳ,từ dinh thự của các quan lại tới tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối tết. Lại có cả câu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hang, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết:

 

Thiên hạ thanh hoàng giai ngă thủ;
Triều đ́nh chu tử tổng ngơ gia.
(Thiên hạ xanh vàng đều tay tớ
Đỏ tía triều đ́nh tự cửa ta)

 

Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta c̣n viết câu đối bằng chữ Nôm. Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đă sử dụng tài t́nh chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện c̣n của cụ th́ 47 câu đối Nôm. Đây là cảnh tết của một nhà nghèo mà ḷng vẫn phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:

 

Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một rượu say tuư luư, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái tết
Ứơc ǵ nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.

Gần mười năm nay, người Hà Nội đă quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà Nho : Bùi Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hoà,…hằng ngày cùng với việc bốc thuốc dạy học các cụ c̣n say sưa viết chữ chân, thảo, lệ… tặng cho những người Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày thường đă cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đă thành lệ đẹp vào dịp tết, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chức triễn lăm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số nhà nho lại được mời đến viết câu đối tết. Vẻ xưa khơi dậy đă thu hút hàng ngàn người trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng.

 

Trở về Trang Xuân Mậu Tư 2008