Nửa đêm, tiếng mưa lộp độp trên mái tôn khiến ông Hai giựt mình thức giấc. Lật đật chui ra khỏi mùng, ông lấy cái thau đang treo trên vách, để liền lên nóc mùng, nơi đã có một giọt nước vừa rơi xuống . Ông Hai nới dây cho cái mùng chùng xuống thật thấp. Ông đem cái thùng đựng nước vô giữa mùng, để cái thau ngồi yên ổn lên nắp rồi ông mới nằm xuống, nhắm khít rịt hai con mắt cố ngủ trở lại. Tiếng gọi con dồn dập của cô tám Gói nhà sát bên vang lên: -Gọn, Gọn...chạy ra hốt một ôm củi của ông Hai đem vô nhà cho má, để một chút má nấu xôi. Con Gọn cằn nhằn: -Sao má không sai con Lẹ? Hở hở là kêu con. Tiếng cô Tám nạt rân: -Bộ mày không biết nó mà ngủ thì cháy nhà cũng không hay sao? Ra cho lẹ hông? Ba cái nếp tao ngâm rồi, không có củi nấu là sình chương chỉ có nước đem đổ. Có tiếng con Gọn tu lên khóc rồi tiếng mở cửa át hẳn tiếng mưa. Mưa bắt đầu nặng hạt hơn. Bên nhà cô Tám chắc cũng dột nên ông nghe cổ nói tiếp: -Lấy thêm một cái thau đưa đây cho má. Giọng con Gọn quạu đeo: -Hết thau rồi! Cô quát lớn: -Vậy thì lấy cái nồi. Con Gọn hỏi to: -Cái nồi nào? Cô Tám gắt: -Cái nào cũng được, nhớ lấy cái rế theo để lót. Rồi cổ xuống nước, hỏi con Gọn một cách nhỏ nhẹ: -Củi có ướt nhiều hông con? Con Gọn đáp -Sương sương Chắc hai mẹ họ chui vô mùng ngủ tiếp nên thôi trò chuyện, chỉ còn lại tiếng mưa... Cái mùng quá thấp khiến ông Hai nghe ngộp thở, khó mà ngủ lại. Ông lại làm cái chuyện thường làm khi mất ngủ, đó là "nhớ". Đầu tiên ông nhớ mấy mẫu chuyện vui, ba cái thứ nầy hay trồi lên đầu. Ông nhớ Thương, cô gái hôm trước. Nhớ nét mặt mừng rỡ của cô khi lấy lại được túi đồ và cầm ba cây vàng của bà chủ bồi thường trong tay. Nhớ dáng vẻ căng thẳng của cô khi đưa miếng vàng cho người thợ kim hoàn nhờ thử. Đây là số vàng lớn nhất mà cô có nên khó tin là thật. Nhớ cái chuyến đưa cổ về nhà (cổ năn nỉ ông tháp tùng theo, làm ba chồng giả để trấn an má cổ và giúp bà không bị mất mặt với bà con lối xóm). Nhớ cái cú thót tim khi bị bà Năm, má Thương, chị sui ngang hông, hỏi : -Thằng chồng con Thương nó họ tên gì vậy anh? Mất ngày nào, tháng nào, tuổi con gì để tui biết mà nhờ mấy thầy trong chùa tụng cầu siêu cho nó. Thương nhanh trí hơn đáp: -Ảnh tên Lương văn Khởi, tuổi con chó, mất ngày rằm tháng chín. Ông Hai cười thầm khi nhớ ra đây là tên của cái thằng cha ông viết trong lá đơn đem theo, định đưa ra để dọa hai vợ chồng họ. Chắc y ta cũng tuổi con chó thiệt. Bà Năm trách: -Sao nó chết cả tháng trời con mới chịu về nhà cho má hay? Ông vội đỡ lời: -Lúc đó mắc thưa kiện lu bu lắm! Chủ của cái chiếc xe hàng cán nó, họ không chịu bồi thường phải nhờ tòa xử mới lấy được đó chị! Bà cự: -Xử cái giống gì mà lâu dữ vậy? Ai phải, ai quấy ngó vô một cái là biết liền. Nhà nước nầy làm ăn cái gì cũng cà rề...làm như muốn nhử để moi tiền con người ta vậy! Ông liền giải thích: -Tại họ xót tiền nên khiếu nại tới lui hoài. Bà Năm lại cằn nhằn: -Cái mạng con người ta đâu có rẻ! Đền bao nhiêu cũng đâu có mua lại nổi mà còn tiếc là sao? Rồi bà nói: -Ngày mai con theo má qua chùa, xin sư ông viết cho cái bài vị đem về thờ trước rồi phóng tấm hình để lên sau. Chưa đủ bốn mươi chín ngày thì phải cúng cơm mỗi bữa. Cái bàn thờ phải đốt nhang với chong đèn hoài không được để cho nhang tàn, khói lạnh. Ông Hai không muốn họ phiền hà nên ngăn lại: -Tui có một thằng con thôi nên thương lắm! Có lập bàn thờ tại nhà, đốt nhang, cúng cơm mỗi ngày. Nhà gần chùa nên tui hay tới tụng kinh cho nó, chị đừng có lo, ba cái chuyện cúng kiến nầy để tui gánh hết cho! Bà Năm cự nự: -Anh nói vậy nghe sao được. Bề gì nó cũng có vợ con, đem bàn thờ về đây mới đúng! Ông Hai và Thương ngán ngẩm nhìn nhau. Cái giải pháp "chồng chết" mà hai bác cháu cho là thượng sách nầy, ngờ đâu nãy sinh quá nhiều rắc rối. Cù lao Cổ Cò rất nhỏ, ở đây hầu hết những căn nhà đều làm bằng tre và lá. Nhà của Thương là một trong số đó. Nó nằm cạnh bờ sông, quay mặt ra con lộ nhỏ. Mái lợp lá chầm, nền đất, cột tre. Vách che bằng những tấm liếp đan bằng lá dừa nên hơi thưa, gió chỉ cần thu mình là chui lọt tót nên lúc nào cũng mát. Ông Hai thích nhất là cái võng dây bố treo ngoài hàng ba. Cái võng nầy đã cũ lắm rồi! Những sợi dây bị đứt được bà Năm nối lại bằng vải vụn, chắc xin của mấy người thợ may trong xóm. Nó được chấp vá đủ chỗ, đỏ đỏ, xanh xanh, đen đen...trông cũng ngộ. Có một cây mận rất to đứng gần thềm, đang rải bông đều đều làm trắng xóa cả một góc sân. Gió thổi mạnh khiến một chiếc lá đã vàng bay vèo rồi đáp ngay lên võng. Ông Hai bỗng thấy ganh tỵ với chiếc lá may mắn đó quá! Nói ba điều, bốn chuyện xong, ông liền xin phép bà sui rồi thót lên võng, giành nằm với nó. Bữa cơm chiều hôm đó, vì có khách quý nên bà Năm mua hai hộp cá mòi hiệu "Ba cô gái" của Thái Lan, luộc thêm hai cái hột vịt. Bà ra giàn cắt thêm một trái bầu để nấu canh với tôm khô. Ông Hai ăn một cách ngon lành. Ông cứ tấm tắc khen nồi canh sao mà quá ngon, quá ngọt! Lời khen chân tình ấy khiến bà Năm và Thương mừng ra mặt. Tối hôm đó ba mẹ con họ: Thương, thằng Út và bà Năm cùng ngủ chung trên tấm giạt tre trong buồng. Ông Hai phải ra cái võng ngoài hiên nằm ngủ. Bà Năm tỏ vẻ ngại ngùng vì tiếp ông sui không được chu đáo. Bà nói bằng giọng nghẹn ngào vì tủi: -Anh sui miễn lỗi giùm tui nghe! Anh coi đó, nhà nghèo tới mức không lo được một chỗ ngủ đàng hoàng cho sui gia. Thiệt là tệ quá! Ông Hai gạt phắt: -Tui còn nghèo hơn chị nữa. Chị còn có được một cái võng, coi như sang hơn tui nhiều lắm đó! Tui thèm nằm võng dữ quá mà đâu có chỗ treo. Bà Năm ngạc nhiên: -Sao vậy anh? Ông Hai cười giả lả: -Nhà sàn, cột tràm ốm nhom, yếu xìu hà! Giăng cái võng, leo lên nằm đưa một cái là sập nhà liền. Bà hỏi lại: -Yếu tới cỡ đó lận sao? Ông Hai gật đầu nói tiếp: -Đã vậy nó còn nhỏ xíu, bề ngang chừng hơn thước rưởi, bề dài nhỉnh hơn một chút, bằng phân nửa nhà chị. Giăng cái võng là hết đường đi tới, đi lui! Bà Năm lại hỏi: -Vậy thì làm sao đủ chỗ cho hai vợ chồng nó với anh ngủ ? Ông Hai gãi đầu: -Thì...thì tui ra hàng ba nằm. Ăn nhiều chớ ở có bao nhiêu? Bà Năm ngẫm nghĩ giây lát rồi hỏi: -Bộ họ bồi thường tới ba cây vàng lận hả anh? Ông Hai gật đầu, nói hớ: -Hăm dọa dữ lắm mới được bây nhiêu đó chị. Ban đầu họ nhứt quyết đền một cây thôi! Nói ráo nước miếng mới được chừng đó! Tui còn bắt con mẻ phải trả đủ tám tháng lương của con nhỏ nữa... Bà Năm ngạc nhiên: -Lương gì vậy anh? Ông Hai hết hồn: -Trời đất ơi! Tui lú lẩn hết rồi, chuyện nọ xọ chuyện kia...Đó là chuyện khác. Thương sợ xanh mặt nên lật đật hối má: -Má hổng đi mời bà con đi! Má đi liền để mình làm xong cho sớm đặng ba con còn về Sài Gòn. Bỏ bàn thờ của ảnh tối thui hổng tốt! Ông Hai ngạc nhiên hỏi: -Mời ai? Chuyện gì mà mời vậy Thương? Bà Năm phân bua: -Dù bây giờ thằng chồng của nó mất rồi, nhưng phải thông báo cho hai bên nội ngoại biết. Sẵn anh còn ở đây, tui tính nấu một mâm cơm đãi bà con rồi giới thiệu sui gia luôn. Anh ráng ở lại vài bữa giùm tui. Rồi bà chậm nước mắt: -Con gái tui hồi đi đẹp như cái bông, bây giờ thì... Bà dừng lại, lắc đầu rồi nói tiếp: -Thôi số trời đã định, cho ai thì người nấy hưởng, mình vô phước vô phần. Thiên hạ có cười thì phải ráng mà chịu, chớ biết làm sao bây giờ! Cái cảnh đóng vai ba chồng nầy làm ông Hai mấy phen chết hụt, cũng may mà bà con ở đây ai cũng hiền lành, dễ tin. Họ là những người chơn chất nhất mà ông biết. Cái nghề vớt rác trên sông của ông chẳng hề làm ai dị ứng, coi thường. Có người còn ao ước nữa, mới ngộ! Họ còn tò mò hỏi coi có khi nào ông mở bọc rác ra gặp cái gì thiệt khủng khiếp hông? Như ngón tay người ta chẳng hạn. Ông Hai chợt nhớ cái lần mình bắt được một hàm răng giả, sợ đến đớ lưỡi. Ông bèn kể lại rồi giả bộ nói ngọng luôn làm mọi người cười nghiêng ngã. Ông cậu Ba của Thương hỏi: -Mỗi ngày anh kiếm được bao nhiêu? Ông Hai đáp thí đại: -Tùy theo hên xui. Độ từ mười cho tới hai chục ngàn. Ông cố ý phóng đại lên tí chút cho Thương đỡ tủi. Cậu Ba của Thương tấm tắc: -Gần gấp đôi cái công cuốc của tui! Phải chi con sông nầy rác nhiều như vậy thì tui cũng làm như anh, khỏi cần cuốc đất tới cụp xương sống! Bà Năm an ủi: -Anh Ba đừng có lo, cái đà nầy tui thấy mai mốt con sông của quê mình rác cũng hổng thua mấy con sông ở chợ đâu. Hồi tui còn nhỏ đâu có rác nhiều bằng bây giờ. Ông Hai nghe bà sui nói mà rầu thúi ruột. Cái mơ ước các con sông đều được trong lành của mình mà ông thừa biết là hết sức viễn vông, lại càng xa vời hơn bao giờ hết !
Buổi sáng đầu tiên ở cái cù lao nhỏ ấy, ông Hai được một cặp se sẻ trên cây mận đánh thức. Rõ ràng chúng cố tình gọi ông, bởi ngay từ cái mở mắt đầu tiên, ông đã thấy cả hai vợ chồng tụi nó đang nhìn ông đăm đăm. Mặt trời không bị các tòa nhà cao lấn áp nên hiển lộ toàn thân. Chắc nhận ra ông là người lạ nên mắc cỡ, mặt mày đỏ ké rồi lũi vô đám mây mà trốn. Lâu lắm rồi ông Hai mới hưởng được cái không khí trong lành, sở hữu một tâm trạng sảng khoái như thế nầy. Ông còn nhớ mình đã nhìn lên trời, tự hào so sánh với mấy đám mây đang nằm yên sưởi nắng trên kia. Cái khoảnh khắc quá êm đềm đó, lúc ấy, chợt khơi dậy trong ông cả một dòng hoài niệm. Ông ngồi bật lên, bỏ chưn xuống đất rồi đứng thẳng người, vặn mình mấy cái. Ông bước lại cái khạp da bò chứa nước đứng dựa cây cột treo võng. Lấy cái nón lá rách úp trên đó ra, nhúng cái gáo vô múc, đưa lên miệng tợp một hớp lưng lưng, ngửa cổ ra súc sùng sục như súc chai rồi phun mạnh vào gốc mận. Lập lại cái động tác mà ngày xưa, lúc còn nhỏ ở nhà, ở quê, mỗi sáng ông từng làm. Thế rồi ông bỗng thấy một người phụ nữ tuổi trạc tứ tuần, bưng cái thúng bên hông, rao : -Bắp hầm hơ! Ông đã ngạc nhiên, tự hỏi: -Sao họ đựng món bắp hầm trong thúng? Để giải tỏa sự tò mò của mình, ông gọi: -Bắp! Người phụ nữ ghé vào, nhìn ông cười tươi rói, hỏi: -Anh Hai mua bao nhiêu? Ông ngạc nhiên: -Sao cô biết tui thứ hai? Cổ đáp một cách thích thú: -Ai mà hổng biết anh là ba chồng con Thương, sui của chị Năm Nhớ ! Chao ôi! Vậy là ông nổi tiếng như cồn rồi! Ở cái xóm nhỏ nầy thông tin đi bằng cách gì mà lan truyền nhanh đến vậy? Lúc ấy ông đã vô cùng hãnh diện và tự hỏi một cách khâm phục! Ông hỏi: -Sao cô không để bắp trong nồi cho gọn mà xớt ra thúng? Cổ lắc đầu: -Bắp phải hầm bằng nồi đất. Bưng tới, bưng lui, để lên để xuống là dễ bể lắm! Thấy ông Hai cứ nhìn chầm chầm vào thúng bắp mà không thèm trả lời là mua bao nhiêu, người phụ nữ đó bèn lập lại câu hỏi của mình khi nãy. Ông Hai đáp nhanh: -Năm ngàn! Cổ trố mắt nhìn ông rồi nói: -Chèn đéc ơi! Bộ đãi hết xóm hay sao mà mua tới năm ngàn lận? Ông lắc đầu: -Tui ăn một mình. Cổ vít một vá bắp đầy trét lên tấm lá chuối, vít thêm nửa vá nữa cũng trét lên đều khắp, rồi rắc muối mè và dừa nạo lên thêm một lớp.
Cổ lấy cái que dẹp lép, lớn hơn ngón tay giữa của ông một chút. Nó được róc từ cọng chuối ra, ghim lên mặt gói bắp để làm muỗng múc ăn. Cổ đưa cho ông rồi nói: -Ăn mình ên thì bây nhiêu đây là đủ no cành hông rồi! Ông nhìn gói bắp đầy vun, hỏi: -Bao nhiêu vậy cô? Cổ đáp gọn lỏn: -Một ngàn! Ông ngạc nhiên, hỏi lại cho chắc ăn: -Một ngàn thiệt hả? Sao mà rẻ dữ vậy? Cổ cười thích thú, trả lời: -Bắp nhà trồng, lấy công làm lời mà! Ông vừa giải tỏa được nỗi thắc mắc của mình (thì ra cổ lót lá chuối khắp thúng rồi mới đổ bắp vô), vừa thưởng thức món ăn ưa thích thuở nào mà chỉ tốn có một ngàn nên cảm thấy thỏa lòng hết sức! Một điều khiến ông vui tột độ là cái thứ mà ông ghét nhứt (bọc ni lông), ít xuất hiện ở chốn nầy. Lúc được thằng Út dắt ra chợ coi cho biết. Ông để ý thấy bà con đều dùng các thứ lá như lá chuối, lá sen, lá bạc hà... để gói hàng hóa của họ. Không chỉ những dân buôn bán "nghiệp dư", lâu lâu mới mang cây nhà lá vườn ra chợ một lần. Mấy người nầy dễ nhận ra lắm, hàng hóa của họ mỗi món một ít : một hai trái bầu, trái mướp; một quảo nhỏ đựng rau càng cua: một nhúm ớt gói trong lá chuối; một rỗ ổi...Họ bán lặt vặt nên tiền đâu có được bao nhiêu, vì vậy phải cắt lá chuối đem theo để gói. Cả dân tiểu thương hàng hóa chất đống cũng thế! Từ mấy người bán thức ăn như xôi, bánh bò, chuối chiên, bánh sùng, bánh xếp...Cho tới những người bán tạp nhạp các thứ như rau, trái, khô, mắm, thịt, cá...đa số đều dùng lá, có vài người chơi sang thì dùng giấy báo để gói hàng. Ông vui vui khi ngắm những bà nội trợ, một tay bưng cái rỗ tre hoặc xách cái giỏ đan bằng mây, bên trong đựng lủ khủ mấy cái gói to to, nhỏ nhỏ bọc bằng một thứ lá gì đó hoặc giấy nhựt trình; Một tay cầm sợi dây xỏ qua mang cá, hay cột ngang hông miếng thịt vừa mua. Ít ai đi một mình, tối thiểu cũng phải hai người, họ vừa đi vừa trò chuyện rôm rả với nhau. Có lẽ trên gương mặt của ông, nụ cười đã hình thành một cách vô thức nên họ đều cười đáp lại. Chỉ có một bà sồn sồn trạc tuổi ông là mắc cỡ cụp nón đi luôn. Nơi đây không thể là đất dụng võ của ông, bởi trên sông chỉ có những cây chuối, mấy dề lục bình và một số rác dễ mục rả trong nước. Thế nhưng ông cảm thấy hết sức có cảm tình với mảnh đất và những con người hiền lành, không làm tổn thương thiên nhiên nầy quá đổi! Cho dù ông thừa biết là không phải họ ý thức rằng ba cái bịt ni lông, bao nhựa... là thứ thức ăn mà bà mẹ đất kỵ nhứt vì chẳng thể tiêu hóa nổi, nên quyết định bảo vệ sức khỏe của bà, tẩy chay không thèm dùng. Ấy chỉ bởi chúng hãy còn là mặt hàng cao cấp đối với họ đó thôi! Chỉ cần thấy bà Năm rửa từng cái túi ni lông đựng mấy món quà của Thương đem về, đem phơi trên dây rồi lấy mấy cây kẹp ghim chặt nó lại. Ông cũng biết rằng mấy cái bọc ấy là thứ được bà con ở đây ưa chuộng nhứt. Hổng chừng chúng còn được yêu quý hơn những món chứa bên trong. Hèn gì mà khi mua, Thương cứ nài nỉ người bán bọc riêng mỗi món rồi gói bằng cả hai, ba lớp. Bây giờ nhớ lại ông cảm thấy bùi ngùi...Sợ rằng đôi ba năm nữa thôi ! Khi ông về thăm như đã hứa với Thương, mọi vật sẽ hoàn toàn thay đổi: Những cái bọc ni lông sẽ bám đầy cành cây thay cho mấy cái tổ chim. Phụ nữ khi đi chợ sẽ ra khỏi nhà với hai bàn tay không, chẳng thèm cầm rỗ, xách giỏ chi cho mệt. Họ trở về với mấy cái bịch trong suốt hoặc đen thùi đựng cá, thịt, bánh, trái... Cậu Ba của Thương sẽ thực hiện cái hoài bảo mà y ấp ủ. Ông ta sẽ sắm một cái xuồng, hoặc kết cái bè rồi suốt ngày đi vớt rác trên sông. Những cô nàng lục bình sẽ không còn mang thân phận côi cút nữa. Bên cạnh chúng chắc chắn sẽ có vô số gã si tình như mấy miếng mốp trăng trắng (thứ dùng để chêm cho hàng hóa trong thùng không bị va chạm), mấy cái túi nhựa đủ màu xanh xanh, đỏ đỏ... lẽo đẽo bám đuôi. Chúng sẽ trở thành bạn đồng hành, sẽ lang thang trôi giạt bên nhau cả trăm, ngàn năm cho đến cùng trời cuối đất. Ông Hai chợt nhận ra rằng: Tiêu thụ, sản xuất không còn dựa vào quy luật cung cầu nữa. Sự ham thích tiêu dùng đã trở thành đại dịch. Chúng do một loại vi trùng siêu mạnh, có sức lây lan khủng khiếp. Chúng sẽ chẳng buông tha cho bất cứ một nạn nhân nào của mình! Có khả năng là ai ai cũng nhiễm bệnh. Có khả năng là không một vị bác sĩ nào thèm nghiên cứu để tìm ra thứ thuốc điều trị hoặc chủng ngừa.
|