Bạn chưa có tài khoản? Hãy bấm vào đây để đăng ký làm thành viên của chúng tôi!
Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Bay Về Tổ Ấm
Hôm nay, 25 Tháng 11 2024, 10:31
Thời gian được tính theo giờ UTC - 4 Giờ [ Giờ DST ]

Đăng nhập

Tên thành viên: Mật khẩu: Đăng nhập tự động mỗi lần ghé thăm Ẩn trạng thái trực tuyến của tôi trong phiên đăng nhập này


Trung Học Tân Châu


» ĐÒ DỌC - Bình Nguyên Lộc «




Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 2 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]
Người gửi Nội dung (Xem: 809 | Trả lời: 1)
Tiêu đề bài viết: ĐÒ DỌC - Bình Nguyên Lộc
Gửi bàiĐã gửi: 17 Tháng 8 2009, 13:25
Ngoại tuyến
Member I
Member I

Sinh nhật: 00-00-0000
Ngày tham gia: 25 Tháng 11 2008, 10:30
Bài viết: 33
Quốc gia: Vietnam (vn)

Người tạo chủ đề
CHƯƠNG 1


Cả nhà bỗng giựt mình thức dậy giữa loạt súng đầu. Ông Nam Thành nói: "Rồi, rồi !" rồi nhào đại xuống đất và hét thêm: "Xuống bà, mau mau ! Bây ơi, xuống đất mau mau !"
Bà Nam Thành mập tù lu, ột ệt ngồi dậy, bới đầu, bộ chậm rãi như không việc gì, khiến ông sốt ruột nạt:
- Biểu xuống, còn ngồi đó, chết bây giờ !
- Làm gì mà chết !
Ầm... !
Cả dãy phố như rùng mình lên một cái, đất cát đâu trên ngói rớt xuống trần kêu lộp độp, trần xi măng lại đổ xuống gạch kêu lạch cạch như ma ném đá.
Bà Nam Thành ngã lăn trên nệm rồi la bải hãi:
- Chết rồi ông ơi !
- Ừ, nói không chết mà ! Thây kệ cứ ở trển mà la, rồi đạn nó ăn, đừng than.
Bà Nam Thành cứ vừa la, vừa kéo mền trùm lại kín mít, làm như trùm mền là chắc ăn lắm.
Nơi buồng trong nghe chào rào chộn rộn nghe lụi đụi dữ lắm, rồi có tiếng cười, lại có tiếng khóc, cười và khóc đều do con gái cả.
Ông Nam Thành lại kêu:
- Con ơi, xuống đất nghen con !
- Dạ !
- Dạ !
- Dạ !
Có đến bốn tiếng dạ, mà toàn là giọng con gái.
Nhà có ba buồng. Buồng ngoài là một cái thảo bạt, cất thêm mái hiên và cửa, vách, dùng tiếp khách. Ông bà Nam Thành ngủ ở buồng chánh, bầy giờ biến thành buồng giữa, bốn cô con gái ngủ ở phòng trong cùng.
Bóng chong ba nến ở thảo bạt đục và nhỏ như y cái trứng gà, đang soi mờ cái cảnh dị kỳ đó, một ông cụ nằm co dưới đất, một bà cụ nằm trùm mền trên giường và bên trong bốn cô con gái ôm nhau cười và khóc.
Liên thinh vẫn nổ không dứt, từng chập điểm những tiếng nổ ầm của tạc đạn, của bách kích đạn, giống như pháo tràn ngày Tết điểm pháo đại giữa dòng.
Quả đạn bách kích nổ to hồi nảy, gần nhà, là một quả đạn lẻ loi, còn thì nổ tương đối hơi xa cả.
Ông Nam Thành bò lẹ vào buồng trong, nhìn một đống người lù bù tay chân và đầu rồi hỏi:
- Có đứa nào làm sao không?
- Dạ không !
- Dạ có, ba à, con Quá nó khóc ba à !
Có tiếng cười rúc rích của hai ba cô gì đó, rồi nghe một cái đụi.
- Ui cha ! Con dịch ! Ba ơi, nó đạp con té cái bịch đây nè.
- Đừng có giỡn mà các con ! Tao rầu chín ruột mà tụi bây còn giỡn được !
Cái cô gái nói tiếng NÈ với chử r ngoài sau, hỏi to:
- Má sao mà la dữ vậy, ba?
- Thì cái tật của má mầy, không biết hay sao mà còn hỏi. Nó nằm đó mà la, chứ không làm gì hết, có thèm hạ thổ như mình đâu ! Thôi, rán chịu, đừng có lên giường nghe các con !
Rồi ông bò trở ra. Bây giờ tiếng súng hơi lơi, bà Nam Thành hé mền, thấy không có gì ghê sợ cả, nên đánh bạo tung hết mền rồi lết xuống gạch.
Ông Nam Thành bò tới nơi, hỏi đùa:
- Sao không nằm luôn ở trển?
- Mấy đứa nhỏ có sao không ông? Bà không đáp mà hỏi lại như vậy.
- Chúng nó đánh lộn trong đó, chứ không sao cả !
- Chồng ngồng cái đầu mà sao như là con nít é ! Ông à, gì đó vậy ông?
- Họ đánh giặc chớ gì !
- Ai đánh với ai? À, mà hồi nãy, ông nói gì mà "Rồi, rồi !"?
- Bà quên rằng hổm nay nó căn thẳng như dây đờn hay sao. Người ta nín hơi lo cho dây đứt. Nay nó đứt là "rồi" chớ gì.
Bỗng liên thinh lại nổ hồi dữ dội, đạn bách kích pháo lại nổ ầm ầm, hai ba quả nổ rất gần và trần lại đổ.
- Đâu như là bên bót Hoàng Hùng ! Bà Nam Thành nói.
- Không, độ ra thì là đằng trường Đức Trí.
- Ai đánh với ai vậy ông? Liệu ta đánh Tây hay không?
- Ai biết ! Mà bà hỏi điều đó làm chi?
- Vì đó là việc chết sống của mình. Ông giỏi quá mà sao không thấy?
- Tôi thật không thấy, bà nói nghe thử.
- Nầy nhé ! Nếu ta đánh Tây thì cái thành Ô-Ma trước nhà mình sẽ hóa ra bãi chiến trường, và xóm này sẽ nát cả.
- Ờ, Trời ơi !
Ông nam Thành kêu lên thế, rồi tái mặt đi. Vùa lúc ấy có tiếng đông người chạy rần rần ngoài đường cái, tiếng la khóc om trời.
- Trời ơi ! Ta xung kích thàng Ô-Ma ! Ông Nam Thành kêu lên và điếng cả người.
- Xí, vậy mà làm bộ giỏi, làm bộ gan ! Lính gì mà xung kích người ta, lại khóc. Cho bằng đó là họ đi coi hát về khuya, bị trận đánh bắt chợt giữa đường. Không nghe giọng đàn bà la đó à?
Ầm... !
- Khổ quá ! Bà Nam Thành than. Thật là chạy ô mồ mắc ô mả. Ngỡ lên đây bình yên được, nào dè...
- Chớ mười năm nay lại không bình yên à? Phải ta còn ở dưới thì liệu còn đầy đủ cả nhà như vầy hay không?
- Lâu ngày không nghe tiếng súng, quên nó mất, nay nghe lại thì sợ y hồi 45, má hớ, cô Hương nói.
- Em nhớ lại cái đêm họ đánh nhau ngoài vàm, em ghê quá, cô Quá nói và bị một cái tấm tức muộn ngắt đôi câu nói của cô.
- Nói dóc, cô Hoa mắng em. Hồi đó mày có mười một tuổi, biết gì?
- Chớ chị lại lớn hơn ai. Chị mười ba tuổi, chớ bao nhiêu.
- Mà tao có dóc, có nói nhớ cái gì đâu.
- Tôi đố ông ai ăn ai chua?
- Chưa có ăn, thua gì đâu. Lực lượng của đôi bên, lẽ nào chỉ đánh vài giờ mà tiêu hết một bên được. Họ ngưng đó chớ.
- Vậy còn đánh nữa? Ghê quá !
- Ghê cũng phải chịu, chớ biết sao. mà mình dại quá, sợ hãi vô ích. Vách tường mấy mươi lớp chung quanh, đạn làm sao tới mình cho được.
- Sợ mọt-chê ấy chớ.
- Có trần thì đỡ lo.
- Trái phá thứ lớn, nổ bể nhà hay không ba?
- Sao lại không. Nhưng nhà mình là nhà dân, chớ có phải là pháo đài đâu mà họ dùng trái phá thứ lớn để bắn sập nhà mình.
Cả nhà mòn mỏi rồi ngủ quên luôn cho đến trưa trờ trưa trật mới dậy.

- o O o -

Nhà ông Nam Thành ở trong ngõ hẻm ba mươi căn đường Vỏ Tánh, ngang hông thành Ô-Ma. Ông ở căn bìa hết và chuyên bán rương và va li da cho quân nhân Pháp.
Trước kia ông là thầy giáo Hải, giáo làng, ở một xó hẻo lánh trong tỉnh Bặc Liêu. Hai vợ chồng trôi giạt lên Sàigòn với bốn đứa con gái, một gói áo quần cũ và hai bàn tay không.
Gia đình ở đậu nhà người bà con, tại căn nhà bây giờ. Nhờ cần cù và may mắn, nhất là may mắn, hai vợ chồng dành dụm được chút ít, trong khi người bà con nướng sạch cả của cải trong Kim Chung.
Thành ra không bao lâu, người bà con ấy nhường đứt luôn căn nhà lại cho ông giáo Hải.
Người trong xóm phần đông là me Tây, thứ me hơi sang sang, nên mới được các đức phu quân mướn phố gạch cho mà ở.
Ông giáo Hải quan sát nhận ra điều này, là những cô me Tây ấy thường đổi chủ tùy theo sự thuyên chuyển của các đức phu quân.
Họ được giao tận tay cho người thừa kế, bên đi và bên lại, rua nhau rất thân mật, gởi gắm cô nàng rất ân cần.
Vì vậy ông giáo nẩy ra sáng kiến bán rương da. Ông đến rương của xưởng thợ người miền Bác, rồi bán lẻ tại đây mà ăn lời.
Môi giới là những cô me Tây ấy ; họ ăn chia với nhau và đồng lòng cùng nhau mà đập các quân nhân dễ tính trong công việc mua sắm kia.
Những ngày khói lửa sau cái hôm hãi hùng ấy trải qua như một cơn ác mộng. Rồi câu tục ngữ Pháp "Sau mưa thì nắng" sao mà nghe đúng như bon.
Quả thế, sau mấy tháng sau đó, vợ chồng ông Nam Thành phát tài lạ. Tây nó mua rương nhiều gấp ba mọi khi, mà không cần trả giá cho lắm.
Ông Nam Thành nhận thấy điều này nữa là bà me Tây nào tiển chồng là trở về với chăn đơn gối chiếc chớ không có người hứng hoa rơi như trước nữa.
Ông không quen nghĩ xa, nên cứ làm ăn được ngày nào là mừng ngày nấy thôi.
Vào tháng thứ ba, ông bán thôi không hở tay. Ông không ngạc nhiên, vì có tin chánh thức là quân đội Pháp sẽ rút toàn diện.
Tuy chỉ tham gia khán chiến có một năm thôi, ông Nam Thành vẫn ao ước độc lập và mong đợi sự triệt thối ấy từ hơn mười năm nay.
Bây giờ mộng ông đã thành sự thật thì còn gì thích bằng. Thích hơn nữa là Tây ra mà tiền lại vô. Vô rất nhiều. Vui lắm ! Những trò sảy ra chung quanh ông cũng rất khôu hài để tăng thơ thới nơi lòng ông. Các cô me Tây làm mối ăn tiền đầu, mà mỗi lần đưa tay lấy tiền là khóc bù lu bù loa. Nào là "Thằng chả đi luôn thì tụi em đây khổ bỏ mẹ". Nào là "Tiền này là tiền vớt, tiền vát, nuốt thì nó nghẹn thì thương ai, mà không nuốt thì sẽ không có mà nuốt nữa".
Một cô nói: "Mình đi chung một xuồng, ông Nam Thành hớ. Hễ tụi em mà chìm, thì ông cũng chìm tuốt theo".
Nghe câu này ông Nam Thành giựt mình. Nhưng cái nguy xa lắn sao được cái đắc thắng gần. Và qua cái tháng làm ăn rận rộ đó, ông mới thấy lời ấy là đúng.
Hai vợ chồng ông Nam Thành ở lại ăn lần tiền lời kiếm được một cách vội vàng kia.
Một năm qua...

- o O o -

- Vỡ nợ rồi !
- Ai vỡ nợ?
- Ông Đỗ Mạnh Tánh chớ ai.
- Tánh nào?
- Bán thực phẩm cho nhà binh Pháp, đường Yersin đó mà.
- À, nhớ rồi, có bà vợ còn trẻ ấy à?
- Ừ.
- Trời, sao mà mới có một năm...
- Thì ăn xài to, lại đổi nghề trong khi chưa sành trong ngành hoạt động mới.
- Chỉ có mình là khôn. Ở không, nghĩ lẵm rẵm mà hay.
- Hay gì. Thì cũng chết như nhau. Người ta loi nhoi thì phải lăng đùng ra mà chết. Còn mình nằm yên không cục cựa thì sẽ chết lần, chết mòn, đằng nào cũng chết cả.
- Lạ quá, ngày xưa, không có quân đội Pháp, sao không ai chết. Bây giờ có, mà hễ nó đi là áp nhau mà la làng.
- Có gì lạ đâu. Là tại mình ăn bám nó. Đứa nào không ăn bám nó, vẫn sống nhăn. Hội Đồng Thời bên Rạch Giá, bây giờ chạy xe đò Sàigòn Bình Đương đó, có chết đâu, tuy cũng mệt chút ít thôi.
- Không chết mà cũng mệt. Tại sao lạ vậy?
- Là tại đời bây giờ cái gì cũng dính liền với nhau không thể tách riêng được. Nầy nhé: Tây nó đi, thì các quán rượu đóng cửa. Nhân viên các quán rượu ấy không có tiền ăn phở nữa. Anh hàng phở, vì thế hết xu để đi xe. Các me Tây không may áo, không bỏ giặt ủi nữa thì hiệu may, hiệu giặt ngưng hoạt đông, thợ may, thợ giặt không đi coi cải lương, cải lương sụt rờ sết, bào kép bớt mua báo, báo ế vân... vân...
Thảm lắm ! Mấy năm trước hễ mình đón tắc xi là y như bên cạnh mình cũng có người đang đón. Xe ngừng khi mình đứng dang nắng muốn rụt giò là mình và họ tranh nhau mà lên xe, cãi lộn om trời. Ngày nay thì khác xa: bà đưa tay ngoắt một cái là ba bốn chiếc tắc xi về lại, bác tài nào cũng quả quyết là mình kêu họ trước. Thật là:
Thân này nếu sẻ làm tư được
- Sao hồi đó ông cứ vái cho nó đi. Phải nó không đi có phải là...
- Bà đừng nói bậy. Nó phải đi thì dân ta mới ngóc đầu lên nổi. Còn tụi ăn bám như mình, muốn khỏi chết thì đổi nghề, chớ có gì đâu. Khi một số đông không ăn bám vào chổ nao được nữa, thì cố nhiên có rối loạn. Trật tự cũ bị xáo trộn cả. Những phần tử bị hất ra đó, vì bản năng tự tồn sẽ cố tìm nẻo mà chui rồi lần lần trở về lối sống cũ trước ngày ăn bám, và tình trạng sẽ ổn định lại như xưa. Có điều là phải bỡ ngỡ khổ sở, khó khăn lúc mới bị xô ra, nhưng phải cắn răng, mà chịu chớ kêu ca với ai, ai biểu mình ỷ lại làm chi.
- Ông nói nghe dễ ợt. Sao không giỏi đổi nghề thử coi !
- Thì đổi. Bà tưởng trong một năm nay, tôi yên phận nằm ỳ ở đây sao. Tôi tính nát trí mà chưa ra đó chớ.
- Một măm mà vẫn không ra, thì ba năm nữa, chắc cũng chẳng ra !
- Bà đừng có vội. Người ta no;i bôn ba không ra thời vận. Bà thấy không, tụi tư Minh, sáu Chẩn, chạy theo Tây ra Cấp bây giờ cũng thiệt thối về Sàigòn, mà còn méo mặt nữa chớ.
À, nói Cấp, tôi mới nhớ ra. Anh phán Tân ảnh rủ mình đi Cấp, đi hết nội nhà, đi xe của ảnh.
- Ở ngoải mấy bửa?
- Thì đi chiều thứ bảy, chiều chúa nhật trở về. Anh phải đi làm sáng thứ hai.
- Thôi đi ông. Cái đó là đi dang nắng chớ phải đi nghỉ mát đâu. Tối thứ bảy đi ra tới ngoải rồi chịu cái nhức đầu đi nắng xuốt đêm đó. Sáng ra vừa hết phải chịu cơn nhức đầu bận về nữa. Mẹ con tôi ở nhà còn xướng hơn.
- Nhưng tôi đã hứa lỡ rồi.
- Thì ông đi một mình.
Ba ngày sau, ông Nam Thành cọp xe đi Vũng Tàu, đến mười giờ đêm sau mới về tới nhà. Sáng ông ngủ dậy rất trưa rồi loay hoay một hơi là tới bữa ăn.
Chiếc bàn tròn xếp, kiểu cắc chú, được mở ra và đặt ngay giữa nhà bếp, cạnh cái lò. Khói nấu cơm, vì thiếu lối thoát, còn un nghẹt nơi đó.
Cả nhà đều ngồi quanh bàn, trừ cô Hương, con gái lớn của ông bà, còn bận chiên cá bông lăn bột, món ấy cô làm sau hết cho được nóng hổi lúc ăn.
Mặt đỏ ựng nước mắt sống chảy ròng ròng vì cay khói, cô Hương vừa vén tóc trán bằng cái tay, vừa cười nói với mấy cô em:
- Bữa nay tao mới hiểu tại sao bánh xèo mà người Huế gọi là bánh khói.
- Vậy hà, cô Quá ngạc nhiên hỏi, họ kêu là bánh khói à?
- Chớ sao.
- Tại sao vậy chị? Cô Hoa hỏi.
- Tại bánh xèo phải ăn ngay lúc mới lấy ra khỏi chảo mới ngon. Mà muốn ăn ngay, phải ngồi gần chảo, tức là phải ngồi gần khói. Ăn bánh khói, tức là ăn bánh trong đám khói.
Ông Nam Thành cười ha hả:
- Con Hương nó bói ra ma. Tao thì nghĩ khác. Tao tưởng khói là tiếng khoái, nói ngọng theo lối miền Trung. Bánh khói là bánh khoái, ăn khoái miệng lắm.
- Thôi, con rồi thì đem lại ăn luôn con !
Bà Nam Thành sốt ruột con gái lớn của bà bao giờ cũng thiệt thòi, nên thúc giục như vậy.
Cô Hương xúc cá bằng vá dẩy rồi vội vàng đe, lại đặt trên nệm xà lách xon trong dĩa.
- Chế nước sốt vô, Hồng ! Cô bảo em gái kế như vậy rồi đi rửa tay dính mỡ để ngồi vào bàn ăn.
Người miền Nam ta có nhiều lối đặt tên con rất ngộ nhgĩnh. Có lối đặt liền với tên cha, hễ cha tên Sang thì con phải tên Trọng, cha tên Phú thì con phải tên Quí, cha tên Sâm thì con phải tên Nhung.
Có lối đặt liền với nhau. Thí dụ bốn đứa thì đặt: Nết, Na, Đằm, Thắm, năm đức thì đặt: Cửu, Hạn, Phùng, Cam, Võ.
Ông Nam Thành đặt tên con một cách đặt biệt hơn ai cả, ông dựa theo năm chữ nhạc đầu trong điệu Bình bán vắn mà quyết định giọng của chữ tên của con ông.
Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm.
Ý ông muốn nói: cái hương của hoa Hồng thơm quá ! Mà nói bằng điệu câu Bình bán vắn câu đầu.
Cứ theo ý chí đó thì ông mà có đặt như vầy cũng vẫn ổn.
Con, Cò, Ma, Ốm, Thay !
Hoặc:
Tao, Mày, Đi, Tắm, Chơi !
Vì bất kể như vậy, hay nói cho đúng ra, vì chỉ kể có giọng bằng, trắc thôi, nên đứa nào xui nấy chịu. Đứa đó là cô con gái thứ năm, cô Quá.
Con gái mà tên Quá, trong khi con nhà khác tên là Lê Chi, Bích Vân thì có tức hay không? Cái cô Quá nầy khóc mãi vì cái tên kỳ cục của cô.
Được cái là em cô, con Thơm, chết ngay hồi ba tuổi, cô Quá thành con gái út, được cưng dữ lắm nên cô tự an ủi phần nào.
Là con gái lớn, quán xuyến cả việc nhà, nên Hương ngồi gần bếp để bới cơm và rội thức ăn.
Con cả trong gia đình nào cũng thế, không đẹp lắm, lại hơi thật thà, nếu không đần, tương đối với mấy đứa sau.
Cô Hương năm nay hăm tám, trông hiền hậu quá sức, lù đù như gái quê, và an phận như bất kỳ cô gái luống tuổi nào.
Gương mặt cô chỉ dể thương thôi. Còn thân hình cô thì hơi đẫy đà. Người ta nói con gái lỡ thời hay phát phì thình lình hoặc đột ngột gầy khô đét khi qua khỏi mức tuổi nào đó. Họ cắt nghĩa sự dư, thiếu th.t ấy như vầy: trong cơ thể, sự mất thăng bằng do nội hạch (nhứt là hạch sanh dục) bạo động hoạc quá lười. Có lẽ đúng chăng?
Kế Hương là cô Hồng, hăm sáu tuổi. Hồng đẹp nhứt nhà, nhứt xóm, và có lẽ cô hạng giữa gái Sàigòn.
Người con gái hăm bốn là cô Hoa đã bước gần tới lằn mứt cuối cùng của sự trổ mã. Cô này cũng đẹp, nhưng không quyến rũ bằng cô Hồng kia. Cô Hồng đã nở toàn diện trong sự bừng dậy của nhan sắc một thiếu phụ. Phải, đàn bà còn trẻ khi nào cũng đẹp hơn con gái đương thì. Có ai mê con gái mà tan nhà nát cửa kkhông? Không, chỉ có đàn bà mới làm hại đàn ông được.
Hồng, Hoa rồi đến Quá. Nơi cô Quá, sắc đẹp còn ngập ngừng, những đường cong còn dò dẫm chưa quyết dừng lại nơi đâu cả.
Có thể là cô sẽ đẹp, mà cũng có thể không đẹp bao nhiêu. Sự trổ mã của cô chưa nói lên cái tiếng cuối cùng của nó. Tuy đã hăm hai, cô còn trẻ con cả tính tình lẫn thể chất.
Ba chị em kia đều là gái tân, còn cô Hồng đã viễn du một chuyến trong cuộc phiêu lưu mạo hiễm trên đường tình.
Một sự so le nỗi bật lên giữa vợ chồng ông Nam Thành. Bà thì cao trộm, và phục phịch như bao gạo chỉ xanh. Ông lại len lén thấp, và ốm như người nghiền á phiện. Phải chăng sự lấn lướt của bà vợ là nguyên nhơn của việc đẻ toàn con gái?
- Sớm mai, con đi trên đường Tự Do, thấy buồn quá, cô Quá bắn phát súng đầu tiên như thường lệ. Nội nhà chỉ có cô là nói nhiều hơn cả.
- Đường đó là đường Tây buôn bán. Tây nó cuốn gói hết thì tự nhiên là đường phải buồn. Tiếng vang đầu tiên phát ra từ miệng cô Hoa, một cái miệng ba hoa thứ nhì trong gia đình.
Mà ba ná à, con thấy anh Viết đứng chụp hình dạo trên đó, trước nhà hát Tây (1).
- Thiệt vậy hả? Bà Nam Thành ngạc nhiên hỏi. Trời ơi, sao xuống lẹ dữ vậy? Mà ai lại đường đường một anh thầu khoán mà...
- Bà lầm, cuốc đời giống hệt như đi xe ô tô buýt. Đi ô tô buýt mà đeo được bàn đạp để đến nơi là chúa lắm rồi. Còn biết bao nhiêu người đeo không được phải ở lại vỉa hè, dưới trận mưa ! Kiếm được một nghề, dầu nhỏ mọn, để mà sống, là giỏi lắm đó, đừng có chê.
Cô Hoa cười dòn mà rằng:
- Nhà mình mấy năm trước đi xe ô tô buýt đời, ngồi ghế có nệm. Bây giờ đứng bàn đạp, mà chỉ đứng một chơn thôi.
- Ba so sánh hay lắm, cô Quá khen. Cuộc sống giống hệt đi ô tô buýt về mọi mặt. Lên tại bến thì lấn nhau không còn biết xấu hổ gì cả, miễn tìm được ghế ! Phần đông đi tới đích, mà có ngường cũng xuống dọc đường, đó là những kẻ suy sụp hay bị tử thần rước sớm.
Trên xe cũng có những may mắn, hên xui. Có lần con đứng gần một bà cụ. Chỉ đứng bậy vậy thôi, không mong mỏi gì. Thế mà qua hai trạm thì bà cụ xuống xe, con được ghế, thích quá, thích như ông ba Công nhờ có người trước chết mà được bầu thũ quĩ hội ái hữu Bặc Liêu, mặc sức lấy tiền quĩ mà chơi hụi.
Cô Hồng nảy giờ làm thinh, xen vào một nhận xét:
- Nhưng có khác là xe ô tô buýt, có đờn ông nịnh đầm, còn trên cuộc tranh sống thì không.
- Nịnh gì? Bây giờ có ai thèm nịnh đầm nữa đâu. Họ nói mình đòi nữ quyền tức là tự xét bằng họ rồi, nên họ không thèm nịnh mình nữa.
Cả bốn cô gái đều cười xòa.
Trận cười chấm dứt chuyện đời, nên ông Nam Thành khởi đầu câu chuyện khác.
- Hôm nay tôi đi trên đường Biênh Hòa tôi thấy chuyện này đáng chú ý lắm là ở làng Xuân Trường, dựa hai bên đường, nhà mới, cất lên rất nhiều, trông vui hết sức.
- Yên giặc rồi dân trở về sứ cũ à?
- Không, chổ đó ngày xưa, hồi tiền chiến, không có nhà. Hỏi ra thì mới hay dân mới là những kẻ suy sụp như mình, lùi về vườn để thủ.
- Sao họ không về làng họ, lại chọn chỗ đó?
- Chắc làng họ đang bị nạn cướp bóc như làng mình. Còn tại sao họ chọn làng đó mà không chọn làng khác thì tôi thật bí.Có lẽ ở các làng khác cũng có, mà mình ít đi đâu nên không thấy. Nhưng luôn luôn, họ chọn gần đường cho được an ninh. Trông ngộ quá. Một nếp nhà con con, xinh xắn, vén khéo, giữa một miếng vườn mới lập, cây còn non như cuộc đời chớm nở. Nó trẻ và mạnh làm sao !
- Nhưng chủ nhà lại vào buổi xế chiều. Cô Hoa nói.
- Ừ đúng ! Luôn luôn như vậy. Chỉ có mấy ông già bà cả mới trồng cây ; thanh niên, thiếu nữ nóng tánh lắm, hưởng thì thích mà trồng thì không đủ chí bền.
- Chưa chắc thích hưởng đâu ba. Quá cãi. Con tưởng tượng về vườn chắc buồn lắm.
- Nên thơ lắm chớ buồn gì, cô Hồng đa cảm và hay mơ mộng cãi như vậy.
- Nên chơ đối với bọn về chơi vài bữa. Còn về ở luôn để cuốc đất thì nên... thở là đúng hơn. Cô Hoa thông minh một cách thực tế, thấy rất đúng, và ranh mãnh nói câu đó.
- Chết chưa, ông Nam Thành than, tao định lui về vườn mà tụi bây nghĩ như vậy cả thì làm sao.
Bây giờ cô gái lớn mới xen vô:
- Đâu có nghĩ như vậy cả, ba ! Con với con Hồng thì tán thành. Cọng thêm vào ba, má là mình được đa số rồi. Cho con Hoa và con Quá hỏng giò !
- Ờ, tán thành ! nữa rồi chị đào mương nghen ! Tụi em chỉ làm thơ thôi.
- Thôi không cà rỡn nữa. Bác Phán Tâm, lúc đi xe qua vùng đó, có mách ba một cuộc đất hai mẫu, cách Thủ Đức bốn cây số ngàn...
Bà Nam Thành chận hỏi:
- Tính đi từ Sàigòn lên thì khỏi Thủ Đức hay chưa tới Thủ Đức?
- Khỏi.
- Cũng được. Nếu chưa tới thì khổ, vì đất phía dưới ngập nước, mà lại nước mặn nữa chớ, y như dưới xứ của mình.
- Nghe đâu họ bán có bảy chục ngàn.
- Đất không mà mắc dữ vậy sao?
- Đất bây giờ có giá. Vả lại đó là đất tốt.
- Tôi không hiểu sao ông chẳng tính chuyện về xứ.
- Dưới mình còn cướp bóc nhiều lắm.
- Còn ở đó cũng là chổ khỉ ho cò gáy chớ hơn gì.
- Không, miền đông khác dưới ta nhiều. Ở miền Đông, không có xó kẹt nào mà xe đò không vô tới. Việc tiếp tế dễ dàng hơn, dân ít quê hơn, và nhứt là tương đối an ninh hơn.
- Vả lại ta sẽ ở dựa con đường thiên lý, con đường quan trọng nhứt Việt Nam thì bà biết ta sẽ được yên ổn đến bực nào.
Cô Quá gõ đũa vào chén, đánh nhịp mà hát:
Ai đi lên trên con đường thiên lý sương sa mờ (2)
- Im cái mồm ! Bà Nam Thành mắng con bằng giọng và lối nói miền Bắc. Gần đi lấy chồng rồi mà còn trẻ con !
- Gần đâu mà gần, má. Chị Hai hăm tám rồi mà còn chưa lấy chồng, con mới có hăm hai hè !
Gia đình ông Nam Thành rất cởi mở về việc chồng con của con cái. Bà mẹ ưa nói đùa về vụ đó nên mấy cô con gái quen tai không mắc cỡ nữa và lấy đó làm đầu đề câu chuyện nhiều khi.
Hương bị cô em gái nói mỉa mà không mích lòng, vì cô thấy nó không ác ý. Cô cũng rập nhau mà cười với mấy em cô.
Cô điểm mặt Quá mà nói:
- Về trển, bắt mày nhịn xi nê cho mày ngáp chơi.
Cô Quá chụp cô Hoa mà trả thù:
- Chị Hoa mới là ngáp chớ, em có ghiền ngồi tiệm kem như chị đâu.
Ông Nam Thành làm thinh mà ăn, để cho con pha trò giây lâu mới hỏi vợ:
- Bà nghĩ làm sao?
- Thì quyền ở ông.
- Nhưng bà thích theo tôi hay không chớ?
- Ở đâu quen đó. Thích thì tôi không thích mà theo thì tôi theo. Xóm đó đông hay không?
- Nhà lân cận ở cách đất ấy cỡ hú một tiếng dài mới nghe.
- Uý trời ! Vậy thì sợ chết !
- Có tôi mà còn sợ cái gì. Tôi chỉ lo bà nhớ tay xệp ở đây mà buồn mà thôi.
- Ông nói như tôi là tay cờ bạc. Buồn, đánh chơi chút ít, chớ hồi ở dưới Bặc Liêu tôi lại không chăn vịt, không làm lụng sao?
- Tôi tính như vầy. Mình sang căn nhà nầy, ít lắm cũng được bốn mươi ngàn. Lại hốt mấy đầu hụi chót. Mua đất xong, còn tiền đủ ăn trong năm đầu.
Năm đó ta trồng cây. Nhưng lại trồng xen hàng bông và nuôi gà để kiếm tiền xấp thời đặng ăn năm sau.
- Không cất nhà sao?
- Cất chớ ! Tôi quên nói rõ: Mua đất và cất nhà, cất nhà chỉ tốn độ hai mươi ngàn là nhà rộng chán.
- Sao rẻ dữ vậy?
- Ở nhà quê vật liệu và nhơn công nới hơn ở đây. Vả lại mình biết thu xếp.
- Té ra ba nói thật à? cô Hoa nói.
- Chớ nãy giờ con ngỡ ba, má nói cà rỡn hay sao? Sách có chữ: Tọa thực sơn băng...
Cô Quá cười khúc khích, liếc các chị cô mà phê nho nhỏ:
- Ổng xổ nho rồi đó !
Cô Hương nối lời cha bằng một vế chữ nôm:
-... ngồi ăn núi cũng lở.
Rồi cả nhà cùng cười. Được trớn, cô tiếp:
- Vì vậy ba mới đem mình về gần núi Châu Thới cho nó mau lở thêm chơi.
- Gần núi thật hả ba?
- Cũng còn xa. Mà đi bộ tới đó chưa mỏi chơn lắm.
- Sướng a, tụi mình sẽ đi suối Lồ Ồ mỗi ngày.
- Cô nào cũng có phận sự cả. Ông Nam Thành chận phấn khởi của con lại. Chúa nhựt mới đi chơi.
- Về nhà quê rồi mà còn theo thời dụng biểu phiền phức như ở đây sao ba?
- Tại sao lại bỏ, nếu thời dụng biểu là cần?

(Còn tiếp)

Chú thích.
(1) Lúc xảy ra câu chuyện, chưa có Quốc hội.
(2) Điệu hát thạnh hành hồi tiền chiến.


Sửa lần cuối bởi Cù Bơ Cù Bất vào ngày 18 Tháng 8 2009, 11:51 với 2 lần sửa trong tổng số.

Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: ĐÒ DỌC - Bình Nguyên Lộc
Gửi bàiĐã gửi: 18 Tháng 8 2009, 11:49
Ngoại tuyến
Member I
Member I

Sinh nhật: 00-00-0000
Ngày tham gia: 25 Tháng 11 2008, 10:30
Bài viết: 33
Quốc gia: Vietnam (vn)

Người tạo chủ đề
CHƯƠNG 2


Hốt chót ba đầu hụi lớn xong là ông Nam Thành đi vắng nhà luôn. Ban đầu thỉnh thoảng bỏ cơm sau rồi hai ba hôm ông mới về : ông lo cất nhà để đưa gia quyến lên.
Trong khi đó thì bà Nam Thành tìm người sang nhà, dứt khoát những dính líu tiền bạc nho nhỏ và bán bớt những vật dụng mà ở nhà quê không dùng.
Cả nhà gom y phục trắng và màu để nhuộm đen. Bà Nam Thành nói :
- Làm lụng thì phải ăn mặc đồ đen cho nó đở tốn sà bông. Với lại mình phải làm cho giống người chung quanh. Nếu không, khó mà giao thiệp, mà trộm cướp nó thấy mình sang trọng thì nguy.
- Mình mà sang trọng với ai ?
- Ậy, ở đây mình chỉ xoàng thôi. Nhưng về quê thì các cô sẽ thấy. Các cô nỗi rõ lên như công chúa ấy.
Phe phụ nữ không ai háo hức lui về vườn cả, nhưng ai cũng chuẩn bị ráo riết, nhẫn nại chịu số phận và cố làm cho tròn phận sự. Cảm động thay người đàn bà !
Thỉnh thoảng ông Nam Thành về qua nhà, thấy vợ con buồn buồn, ông an ủi :
- Người ta nói : "Tấn về nội, thối về ngoại". Đồng quê là quê ngoại đó. Đó là nơi ẩn náu tuyệt diệu khi ta thất vận. Có làm là có ăn, không sợ đói bao giờ.
- Chớ ở đây mình làm cũng được vậy ba, cô Quá cãi.
- Mình làm cái gì ? Không lẽ ba đi làm phu cho các xưởng xây cất, hay làm lon ton. Về trển thì ba cuốc đất đó, mà coi nó còn được hơn : sĩ, nông, công, thương, nông đứng đến hàng thứ nhì.
Còn các con, đi bán thuốc điếu không được, bán chè đậu cũng không. Thì về nuôi heo là phải. Trong nhà, làm cực nhọc lem luốc gì cũng chẳng ai biết.
Tình thế bốn chị em quả khó xoay xở. Cả bốn đều có học nửa chừng trung học và đã sống theo lối khá giả từ thuở giờ. Bây giờ dễ gì mà dám đẩy một chiếc xe nước mía ! Đi làm vẫn được đó, nhưng ông Nam Thành nhắm sức học của con mình, cỡ đi làm thì lương chỉ đủ tiền son phấn và áo dài thôi, nên nhứt quyết không cho bốn cô tìm việc.
Ông ít băn khoăn về gánh nặng bốn cái thùng giạ nầy vì ông tưởng rồi chồng nó sẽ rước con ông đi. Nhưng mãi không thấy ai gắm ghé gì cả, cho đến bây giờ thì vợ chồng con cái phải lo cho bổn thân về sau vậy.
Quá cứ chui đầu vào các rạp chiếu bóng. Xem cho ngấy ra để nhịn thèm về sau. Còn Hoa thì lẽ cố nhiên, ăn kem hết hiệu nầy đến hiệu khác. Cô Hồng chỉ ngồi đó mà buồn, hay đi thơ thẩn ở các ngả đường vắng. Người chị cả tự nhiên như không tình cảm, lo thu xếp không ngớt tay.
Nhưng cả bốn chị em đều thích Bằng đến chơi. Bằng là người anh họ của bốn chị em nhà nầy. Hắn nhỏ hơn Hương một tuổi, nhưng trông già dặn, đáng mặt người anh lắm.
Gia đình nào chỉ có toàn con gái không mà thôi, thì rất cần một đứa cháu trai như vậy. Nó sẽ đưa em nó đi chỗ nầy chỗ nọ, những nơi tuổi trẻ giải trí mà người lớn không hạp, không muốn bước chơn tới, cha mẹ, vì thế không đưa con mình đi được.
Hồi mấy chị em mới lên Sàigòn, còn nhà quê đặc, đã nhờ anh Bằng nầy rửa sạch mùi ruộng bùn lầy cho. Cho mãi đến ngày nay họ cũng còn nhờ cậy Bằng đưa vào những nơi họ không dám đến. Nói họ là nói Hương với Hồng ấy, chớ còn Hoa và Quá thì nơi đâu hai cô cũng dám lăn vào. Hai cô đã tổ chức đánh lộn với con trai tại vườn Tao đàn, hồi còn đi học, đã dám vác ve chai chọi lính Lê Dương thì có gì mà hai cô không dám. Còn điều nầy nữa, tuy cả nhà không ai nói ra, là họ hy vọng nơi một cuộc mai mối của người cháu, người anh họ ấy.
Bằng có rất nhiều bạn trai, thỉnh thoảng có rủ vài đứa đến chơi nhà. Thì một khi kia, lẽ nào lại không có một đứa si tình một trong bốn cô.
Bằng cũng thích đưa bốn cô em họ đi dạo. Bốn cô nầy cũng khá đông bạn gái. Bằng thích gặp bạn của các cô. Cả đôi bên đều có lợi.
Nay lui về quê, họ càng hy vọng nơi người anh ấy, rất sợ gãy mất cây cầu liên lạc, nên càng niềm nở với Bằng lúc anh nầy đến chơi, khẩn khoản nài nỉ anh ít ra mỗi tuần cũng lên trên ấy một chuyến.
Hôm Bằng hay tin họ sắp dọn nhà, chàng chưng hửng, rồi buồn buồn hỏi :
- Các cô đi đành à ?
- Không đành cũng phải đành. Anh tính coi còn biết làm sao ! Nè chúa nựt nào anh cũng lên nghen ! Tụi em cho ăn trái cây thì phải biết.
- Nói dóc. Cây chưa trồng, lấy đâu àm ăn.
Cả bọn cười xòa.


- o O o -


Bạn hữu của Hương và Hồng phần đông đã có chồng. Một vài cô đã góa chồng. Đôi cô lại thay chồng hai bận rồi. Cô nào cũng tay bồng tay dắt cả. Thế nên hai cô chỉ đi từ giã những bạn còn độc thân thôi. Những người nầy, tuy không nói ra, vẫn ái ngại cho hai cô lắm.
Còn Hoa và Quá thì trao đổi ảnh không ngớt tay. Có bao nhiêu tiền đi chụp ảnh cả, rồi để tặng bạn, rồi xin ảnh bạn dán vào tập. Họ làm thơ nữa, trong đó có lá
thư, lá vàng rụng rất nhiều, mưa rơi cũng lắm, còn nói gì nước mắt cũng đằm đìa.
Hôm ấy ông Nam Thành về lần chót rồi tuyên bố :
- Xong cả rồi, mốt ta đi !
- Vậy hả ! Ba cô con gái sau, mặc dầu dư biết sẽ có ngày ấy, vẫn rụng rời khi nghe tin dọn nhà. Ba cô cứ mong ông cụ chuận bị chậm thật chậm, càng chậm càng hay. Họ lại mơ hão một chuyện bất ngờ xảy ra để ông cụ đổi ý.
Giây lâu Quá hỏi :
- Nhà đẹp không ba ?
- Đẹp... nghĩa là đẹp theo sằn dã ấy. Hễ qua khỏi Thủ Đức, tụi bây thấy nếp nhà nào xinh xắn muốn vào đó mà ở thì đó là nhà của mình.
Ông cụ tuy vừ nói vừ cười, nhưng vẫn nghiêm trang chớ không cà rỡn. Cái cười đó là cười thích ý về cônng trình của mình.
- Thì xe ngừng ở đâu, là nhà ở đó, như vậy còn đoán trước sao được ? Bà Nam Thành nói.
- Không, tôi sẽ cho xe chạy lố một đoạn đường, để mẹ con đoán chơi. Đoán được thì là tôi thành công, bằng không thì cũng mặc. Rồi tôi sẽ cho xe lui lại ngay nhà.
Ông Nam Thành đi mướn xe cam nhông. Bà thì cho người sang nhà hay tin để mốt họ lại nhận nhà.
Ngày hôm đó, và hôm sau, không ai đi đâu nữa cả. Họ muốn, trong hai ngày cuối cùng, khắn khít với căn nhà mà họ chiếm trong mười năm, căn nhà đã thấy bốn cô gái lớn lên, căn nhà mà trên vách còn những ngắn đo bề cao hằng năm của ba cô gái sau.
Chơn trời chung quanh thật không có gì quyến rủ, tuy nhiên nó quen mắt quá nên họ cũng nao nao buồn phải rời cảnh quen thuộc đó : trước mặt là một dãy phố tồi tàn. Ngõ hẻm ở giữa hai dãy nhà thì lổm chổm đá và loang lổ những ổ gà nước đọng, một hàng trụ, mấy nghĩa địa nhà thờ Cầu Kho. Đầu mgoài là phố Võ Tánh và bên kia phố là hàng rào song sắt của thành Ô Ma.
Cô Hương lớn lên ở nhà quê, và như cha mẹ, xem chổ ấy là nơi tạm trú. Lui về quê cô chỉ thấy thích.
Ba cô sau đã quen mất nông thôn, xem ngõ hẻm là quê hương của họ, nhứt là cô Quá là kẻ lên đây lúc còn thơ ấu lắm. Quá và cả Hoa nữa, tuy nói tia lia vẫ héo hon lòng.
Sàigòn là nơi cô để lại mối tình đầu, nên chi cô Hồng ngậm ngùi hơn ai cả. Mặc dầu mối tình đã tan vỡ mà người cô yêu vẫn còn ở đô thành, thì đô thành đối với cô là một chổ thiêng liêng.


- o O o -


Để cho đở tốn, hôm ấy nội nhà theo cam nhông chớ không mướn xe riêng.
Người Sàigòn dọn nhà đi giữa sự thờ ơ của hàng xóm. Ở với nhau không bao lâu, tới lui nhau rất ít, thì đi đâu nào ai thiết tha đến mình !
Nhờ thế họ lên xe mà khỏi bận bịu người. Cảnh thì cứ ngậm câm, không nghẹn lời giã bạn được, nên họ chia tay với cảnh dễ dàng.
Qua khỏi chợ Thủ Đức, ông Nam Thành nói :
- Coi chừng, mẹ con rán mà dòm để đoán nhà.
- Bên trái hay bên mặt, ông ?
- Biết đâu, cứ xem cả hai bên.
- Hứ, làm bộ bí mật hoài. Nhà tranh chớ bộ lầu đài gì sao mà trịnh trọng dữ vậy.
Họ chia ra hai phe để nhìn hai bên lộ.
- Đây nè, Hoa reo lên.
Người ta xem lại thì đó chỉ là một ngôi nhà gạch củ, Quá véo chị một cái đau điếng.
Bà Nam Thành than :
- Mỏi cổ lắm ông ơi, ông báo hại mẹ con tôi làm chi vầy nè.
Anh tài xế và hai anh phu khiêng đều cười ngất mà thấy ông chủ nhà có ý dấu kỳ dị như vậy.
- Đây nè !
- Lần nầy, chính cô Hương ít nói kia la lên.
Họ day qua phía tả thì thấy một nếp nhà tranh có gác, kiến trúc rất kỳ lạ. Nhưng quả thật xinh lắm. Chung quanh nhà trồng được vài cây bông huỳnh, vài bụi cỏ huệ. Vì cuộc đất hơi to nên chỉ mới làm hàng rào ở mặt tiền thôi, mà đó là một hàng rào tượng trưng, dài độ bốn mươi thước, cố ý làm trước, để trổ cửa ngõ.
Rồi mấy mẹ con lại nhìn người gia trưởng thì thấy ông nầy cười chúm chím. Lúc bấy giờ xe đã chạy qua khỏi đó mấy trăm thước rồi.
Ông Nam Thành biểu xe ngừng và de lại.
Nếu vợ con ông mà biết được những dự bị của ông Nam Thành thì họ sẽ cảm động biết bao nhiêu !
Ông Nam Thành tản cư lên Sàigòn với hai bàn tay không như ta đã thấy. Nhưng ông lại ôm theo một chồng báo P.H. cũ. Báo ấy có dành riêng cho hội Ánh Sáng là hội bài trừ nhà hang chuột ở Hànội hồi tiền chiến, mỗi tuần một trang. Trong trang đó, mỗi tuần kiến trúc sư V.Đ.D đều có vẽ một kiểu nhà tre lợp tranh, rất tiện và khá đẹp.
Ông Nam Thành yêu báo, hay yêu kiểu nhà ? Có lẽ cả hai. Và có lẽ ông đã nưng niu cái mộng về quê cất nhà Ánh Sáng từ mười mấy năm nay.
Thấy rõ là ông đã làm công việc tạo tập nầy với cả tấm lòng ông.
Ông Nam Thành đã tự ý sửa đổi rất nhiều, và nếu nhà kiến trúc sư vẽ họa đồ trông thấy cái nhà lai căn nầy, chắc ông bất bình lắm. Nhưng phần chánh vẫn còn được kính nể và ông Nam Thành có nhiều lý do để xúc phạm kiểu mẩu như vậy.
Trước hết là cái nóc. Ông không lợp mỏng như người mình thường làm hay như họa đồ chỉ vẽ, mà lợp thật dày theo lối Nhật Bổn, dày đến bốn tấc. Bạc ngàn tiền tranh nằm trên đó. Như thế mười lăm năm sau, nóc ấy dễ cũng chưa hề hấm gì.
Ban đầu ông Nam Thành định làm vách đất tô xi măng rồi quét nước vôi để trông cho sáng sủa. Nhưng nghĩ lại vách đất hầm quá, phải tốn rất nhiều cửa sổ. Nên rốt cuộc ông làm vách trỉ long mốt, gần với kiểu mẫu hơn (họa đồ vẽ phên tre).
Nhà gỗ có gác, hai căn, một căn sâu tám thước, còn một căn chỉ sâu bốn thước thôi, thành ra nhà mang hình thước nách, cái phần hủng vô của cây thước nách ấy ngó về hướng đông. Vào buổi xế, chỗ ấy rợp bóng mát.
Theo hình thể đó thì nhà ngăn ra được sáu buồng, ba buồng dưới và ba buồng trên.
Ông bà Nam Thành chiếm buồng trên bên hướng tây, ông bà hy sinh, nhường hai buồng hướng đông cho bốn cô con gái ; ba buồng dưới thì dùng một làm phòng tiếp khách, một làm phòng ăn, còn một để trống phòng lúc có bạn hữu ở lại nhiều ngày.
Nhà bếp và nhà bắc cầu đều cất cột tre, lớp tôn ngừa hỏa hoạn. Ông Nam Thành có làm một việc châu đáo nầy mà ở nhà quê ta, không mấy ai để tâm đến là sau nhà bếp, ông thêm hai cái chòi con, một để tắm rửa, và một xa hơn, là cầu xí.
Phu khiêng bàn ghế vào nhà chỉ tốn có nửa giờ thôi. Nhưng gia đình phải mất trọn ngày để sắp đặt mọi thứ lặt vặt.
Không lần nào mà sáu người ấy đồng ý với nhau về vị trí một bức tranh hay một chiếc bàn con. Họ cãi nhau về mặt thẫm mỹ, mặt tiện lợi, mặt tình cảm, nhiều cuộc tranh luận sôi nổi quá, muốn chấm dứt phải mượn đến lối bỏ thăm đưa tay lên. Ngặt nhà có sáu người, số chẵn, khó lòng mà lấy được đa số khi ý kiến chia hai đều.
Ông Nam Thành khôn ưa xử dụng quyền gia trưởng trong các việc lặt vặt, thành ra nền dân chủ trong gia đình ông gây rối loạn liên miên.
Người ta cãi nhau, người ta giận hờn, nhưng vui lắm vì sự dao động vô tội ấy giúp đỡ chán cái mặt nước phẳng của nhà quê.
Trong buổi dọn nhà nầy gia đình mới hiểu công dụng của những tấm bố nhà binh Pháp loại ra mà ông Nam Thành đà mua dưới chợ Dân Sanh hôm nọ.
Vách trỉ long mốt luôn luôn bị gió lò. Vào thu và bấc, mấy tấm bố nầy buông xuống sát vách bên trong, sẽ giúp cho nhà thêm ấm.
Và giỏ cần xé chai không kia là khí giới tối tân mà ông chủ nhà kỳ dị nầy đã nghĩ ra.
- Ở đây không khỏi có cướp, ông Nam Thành nói. Nhứt là bọn họ đồn mình ở chợ về thì cướp nó càng thêm hơn nữa. Mình nghèo mình biết, nhưng chúng nó ngỡ dân Sàigòn nào cũng nứt đồ đổ vách. Chai nầy ta sẽ đổ đầy nước vào rồi đem lên gác. Cướp nó đến, mỗi người năm bảy chai, chọi cho bể đầu chúng nó ta mới thôi.
- Ghê quá, cô Hồng nói, nó giận nó bắn chết còn gì ba ?
- Nếu chúng lẹ tay, chỉ bắn chết một mạng trong nhà ta thôi. Rồi chúng sẽ bể đầu mà rút lui.
- Thành ra mình phải hy sinh một mạng ?
- Chớ sao ! Ở chỗ dữ tợn phải như thế mới sống còn cho.
- Thôi, ai chọi cướp trước thì trọi, con đợi chúng nó rút lui mới chọi với theo. Quá cười và tỏ thái độ ấy. Nhưng chắc cô ta sẽ làm thật như vậy, khi có cướp đến.
Suốt ngày hôm đó họ ăn bánh mì thịt quay mua ở dưới Sàigòn vì họ đã tiên liệu sẽ bận, không làm bếp được. Mà quả như vậy.
Đến xế chiều, ông Nam Thành mới chịu dùng quyền chỉ huy để phân công cho mọi người :
- Công việc nhà, tôi sắp đặt một lần nầy thôi, rồi bà phải kiểm soát việc thi hành mỗi ngày, để tôi rảnh tay, rảnh trí mà lo vườn tược. Con Ba, con Tư, con Năm, ba đứa biết đi xe máy thì thay phiên nhau mà đi chợ. Đừng đi mỗi ngày mất công. Mình ăn khô, ăm mắm thì cứ hai ba bữa đi một lần.
Những thứ lặt vặt như tiêu, muối, hành, tỏi thì trử cho kha khá, để muốn dùng lúc nào sẵn có trong nhà lúc nấy. Thí dụ nửa đêm thèm cháo gà, trưa trưa họ có bán ếch mập thì ta đủ mọi thứ cần dùng.
- Ông thì lo món nhậu của ông trước.
- Ở nhà quê phải vậy. Có nhậu mới có tới lui với xóm giềng được. À, thay phiên nhau đi chợ, rồi về thay phiên nhau mà giặt gịa...
- Bàn ủi điện má bán rồi, còn đâu mà...
- Má mầy bán là phải, ở đây lấy đâu ra điện. Mà không cần mặc đồ ủi nữa. Có muốn làm dáng thì ủi điện lấy...
- Ủi điện ?
- Phải, ủi điện, mà là điện trời, nghĩa là vuốt cho thẳng, xếp tử tế rồi để dưới gối nằm đè lên đó, thì nó sẽ láng như là...
Cả nhà cười ngả nghiêng ngả ngửa.
Ông Nam Thành lại tiếp :
- Thay phiên nhau giặt gịa rồi áp nhau mà làm vườn...
- Đi chợ rồi nghỉ, giặt gịa rồi nghỉ, làm vườn rồi nghỉ, rửa chén rồi nghỉ, cho heo ăn rồi nghỉ, phải không ba ? Cô Hoa ranh mãnh hỏi cha như vậy.
- Đúng !
_ Ứ hự !
- Còn chị hai, ba ?
- Con hai làm bếp. Nên nói rõ chi tiết. Làm vườn gồm có những việc sau đây : nhổ cỏ, kéo nước tưới cây, bắt sâu, cho heo, cho gà ăn... v...v...
- ba trộn lộn chăn nuôi và trồng trọt. Đó là hai khoa khác nhau. Con học ở trường họ dạy như vậy.
- Hay là con ba biệt phái chăn nuôi. Hai đứa kia làm vườn, ông Nam Thành đề nghị sau lời cãi lý của Hoa.
- Không đâu, con muốn chăn nuôi hè !
- Con cũng vậy !
- Nữa nè, thôi thì bỏ thăm.
- Ừ, oẳn tù tì, đứa nào thắng là được chăn nuôi.
- Thôi đừng cà rỡn nữa. Phận sự của bốn đứa bây đã rõ rồi đó.
Còn bà, bà kiểm soát, nhắc nhở chúng nó, và xuất phát tiền bạc.
- Còn ông ?
- Tôi ấy à ? Tôi thì tôi làm tất cả các công việc còn lại chưa ai nhận lãnh.
- Đâu còn công việc gì ba, Hoa cãi.
- Ba ăn gian quá ! Quá phàn nàn.
- Sao lại không còn ? Tiếp khách nè, đi thăm xóm giềng nè...
- Nhậu nè, bà Nam Thànnh vừa xỉa thuốc sống, vừa tiếp lời chồng, và bốn cô con gái đều cười rộ lên.
- Nói chơi vậy chớ ba sẽ làm tất cả công việc nặng mà mẹ con bây làm không nổi. Nội hai việc sau đây, thử hỏi đứa nào dám đãm đương không ? Đó là việc canh ăn trộm và coi chừng ma cho bây ngủ.
Cô Quá ý ạ một tiếng rồi nhảy vô ngồi giữa gia quyến mắt liếc ra vách. Qua trỉ long mốt, hoàng hôn xuống ngập đồng vắng. Đây là buổi chiều đầu tiên mà bốn cô con gái sống ở thôn quê. Lòng họ bỗng nghe buồn minh mông quá, khiến họ kinh ngạc cho số phận họ, mới hồi sáng còn ở chốn phồn hoa đô hội, rồi chớp mắt một cái thì bây giờ đã ngồi giữa cảnh đìu hiu, cô quạnh nầy, và không biết về sau sẽ ra sao.
Ông Nam Thành có sắm một cây đèn măng sông, mua săng, mua rượu đủ cả. Nhưng ông nói thắp đèn sáng quá sợ người ta để ý ngỡ gia đình giàu có dư dả lắm, rồi trộm cướp nó mò tới. Nên chi họ thắp đèm dầu hôi .
Cô Hương đã có ở nhà quê, nên không thấy mình lạc hướng bao nhiêu trong cảnh quạnh quẽ nầy. Nhưng ba cô khác vì rời thôn xóm lúc còn bé quá, nên nghe bỡ ngỡ lạ kỳ.
Cây đèn vặn ngọn lên cao thì un khói, còn hạ thấp ngọn ánh sáng vàng vàng cũng phủ lên buồng khách một màu dơ dáy, ủ rũ và bệnh hoạn.
Những con sâu con trùng gì không biết, ở đâu ngoài cỏ nội bay ùa vào đâm đầu vô ống khói rồi chết thiêu rơi rơi xuống đầy mặt bàn. Có một mớ lại rơi ngay trong ống khói đèn và lớp xác sâu cứ càng lúc càng dày lên.
Ông Nam Thành lượm lên một xác sâu xanh rồi nói :
- Thứ nầy tên là con phù du...
- Vậy hả ba ? Té ra con phù du có thật à ?
- Sao lại không thật.
Rồi ông ngâm :
Đời người như kiếp phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
- Chà, ba thi sĩ quá !
Thêm hứng, ông Nam Thành hạ ngọn đèn xuống đoạn lại ngâm :
Canh khuya thắp chút dầu dư,
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình.
Cô Quá vỗ tay khen :
- Hay quá ! Ba dạy con câu hát nhà quê đi ba.
- Tụi bây ở chợ, không nghe ai hát ru con nên dốt về câu hát lắm. Về đây rán mà banh lỗ tai ra để nghe mà học.
- Học làm gì, bà Nam Thành cà rỡn, mấy đứa nầy nữa chúng nó ru con bằng âm nhạc hò lờ, lúa vàng, và hò dô ta ấy mà !
Cô Hồng cứ ngó ngoáy ra sau lưng mà nói :
- Vách hở như vầy, ghê quá !
- Cho nên ở nhà quê, ngủ phải tắt đèn, nếu chong đèn ăn trộm nó thấy rõ bên trong hết.
- Nhưng không chong đèn thì tối hù, lại còn ghê hơn nữa, bà Nam Thành bàn rộng sau lo sợ của Hồng.
- Kín cổng cao vách như vầy mà còn sợ thì ở đây sao được, ông Nam Thành nói.
- Ăn trộm nó dòm vô, nó thấy cái gì ba ?
- Thì nó thấy mình nằm đâu, ngủ hay thức, tủ áo để chỗ nào, tủ tiền kê xó nào ấy mà. Ngày xưa nghe bà nội bây nói lại, trộm còn giỏi hơn nữa. Nó gắn một cây đèn cầy cháy lên lưng một con cua, rồi nó thả con cua vào nhà, qua hạ cửa. Con cua bò qua lại trong nhà, soi sáng cả mọi vật. Lắm khi không cần đèn, chúng vẫn thấy rõ trong bóng tối như giữa ban ngày. Đi đứng thì chúng dùng một que tre thật nhỏ và thật dài mà quơ trước mắt. Que đụng phải cột, báo chúng biết để tránh mà không khua động gì hết, cho chủ nhà đừng giựt mình thức dậy.
Chúng lại hốt gạo cất sẵn trong túi mà ném tứ tung ra. Gạo chạm phải đồ đồng, đồ thau, kêu leng keng nho nhỏ, dẫn dắt chúng lại chỗ cất đồ quí đó. Ấy ngày xưa, trong nhà dân, chỉ có đồ đồng, đồ thau, là quí giá thôi.
Ánh đèn dầu phóng đại lên vách trỉ sáu bóng người. Quá đưa cánh tay lên hươi thử và lấy làm thích mà thấy bóng cánh tay nàng giống đầu một con vịt quây mỏ lại để rỉa lông.
- Đừng giỡn với bóng, khuya ngủ, nó dồi chết bây giờ. Ba Nam Thành mắn con gái út.
- Bà khéo dị đoan hoài. Bóng sao lại dồi người ?
Cô Hồng đứng lên đi lại đi văng lấy chiếc gối dài, ôm gối vào mình như ẵm con, rồi ngắm thử bóng mình trên vách.
Như hội ý, cô Hoa hát :
" Ai đời còn nhớ chăng "
Xóm Nam Xương có một nàng.
Lòng son muôn đời muôn kiếp mang xuống tuyền đài.
Câm uất ôi buồn ôi đến bao nguôi.
Ông cụ cũng cảm xúc về chuyện cổ tích mà lũ con ông vừa gợi lên, nên ngâm bài thơ Lê thánh Tông :
" Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương "
Câu chuyện đã đến lúc nặng nề khó thở. Mà không khí cũng khó thở thật. Bầu trời giống như một nồi xúp de bị nung nhiều giờ, áp lực mạnh vô cùng mà không ai xả xúc báp cho xì bớt hơi.
Lúc ấy vào cuối tháng tư, tại hóa chuyển mình một cách đau đớn để bước sang mùa khác, nhưng bước còn do dự ngập ngừng nên vạn vật dưới đây bị đè dẹp dí xuống.
Không bảo nhau, cả nhà đông đứng lên, đi ra ngoài.
Mặc dầu nực, trời không mây. Sân sáng sao, trông mờ mờ như hừng đông. Vài con đôm đóm nở trước mùa, xẹt qua lại trên không trung thành những lằn nhỏ dài như những mũi kim vàng. Đèn nhà ai le lói đằng xa và xa nữa rừng mờ đen trên chân trời trong hơn một tí.
Trên vòm trời, sao dầy đặc như dề cơm cháy. Đó là muôn ngàn đâu cây đinh bằng vàng đóng trên một tấm trần đen.
Thỉnh thoảng một cây đinh long ra, rơi đi đâu không biết.
- Sao băng ! Bà Nam Thành nắm tay chồng, hồi hộp nói bằng giọng run run.
- Không có gì đâu mà sợ. Mỗi đêm hằng trăm ngôi sao xẹt đi như vậy là thường.
Trong khi đó thì bốn cô con gái đều ngó về hướng nam. Một vầng ánh sáng bừng lên ở chơn trời hướng đó, như mặt nhựt sắp lú lên vào buổi bình minh.
Đó là ánh sáng đô thành mà mới hôm qua đây họ còn sống lộn trong đó. Mới hôm qua nầy ? Ừ ! Nhưng sao mà nghe như lâu quá rồi, nghe như xa lắm rồi. Nỗi nhớ xứ, nhớ nhà minh mông như là họ đã lìa khỏi quê cha đất tổ.
Quặn quẹo là khúc đường từ nhà đổ xuống chợ Thủ Đức và quặn quẹo là lòng của bốn ả nhớ nhà. Lòng quặn quẹo và ruột quặn đau niềm ly biệt cái nơi mà họ xem như nơi chôn nhau của họ.
Cô Quá không sao xóa được nơi trí cô hình ảnh các rạp chiếu bóng hực hỡ đèn màu. Nóng bức lại nhắc nhở cô Hoa các tiệm kem mà nơi đó, giờ này, bạn hữu cô đang ngồi chấm chút thứ tuyết ngọt kia.
Riêng cô Hồng thì ngậm ngùi hơi ai cả. Cô không chỉ để lại Saigòn một căn nhà không cá tánh, một lũ bạn ít tình cảm hay một cuộc sống quay cuồng, mà là một mối tình đầu, hơn thế, một mối ttình đau thương không nguôi.
Như hiểu ý con, ông Nam Thành nói cho khuây dạ chúng nó :
- Các con biết ! Ngày xưa không ai nhớ Sàigòn cả, vì lúc đó không có dân Sàigòn.
- Không có dân Sàigòn, thưa ba ? Cô Hương ngạc nhiên hỏi.
- Nghĩa là có, nhưng không phải dân Sàigòn chánh hiệu. Sàigòn ngày xưa chỉ gồm có hai thư dân : thương gia và công chức. Công chức toàn là người các tỉnh lên. Họ về tỉnh cưới vợ, khi muốn lập gia đình. Đẻ con ra, họ cho về tỉnh ỡ quê ngoại, quê nội. Cả Sàigòn đều đổ xô nhau mà nhớ tỉnh. Hễ Tết một cái là Sàigòn trống trơn. Về ông về bà hết kia mà !
Vả Sàigòn lúc đó cũng chưa có đặc tính gì để họ lưu luyến, cho đến đỗi ca dao về Sàigòn cũng rất hiếm hoi, đếm được trên đầu mười ngón tay.
Số phận của các thành phố mới là như thế. Không có dân chánh gốc để làm cốt trụ, không có nhân cách riêng để quyến rủ người ta.
- Ba chưa nói đến hạng thứ hai là thương gia.
- Ờ thường dân ấy à ? Bọn nầy là ngoại nhân cả. Cũng có vài thương nhân Việt Nam, nhưng họ là hạng người ít tình cảm, đâu cũng là quê, là nhà được tuốt.
Phải qua nhiều thế hệ người, một thành phố mới trở thành được một quê cũ có người nhớ, có người thương. Có lẽ Sàigòn ngày nay đã đến tuổi già dặn của một chốn định cư lâu đời rồi.
Bây giờ đèn pha xe hơi từ Sàigòn lên và từ Biên Hòa xuống soi thủng bóng đêm trên đường. Tia đèn bắt tréo nhau như những lưỡi gươm dài mà mấy tay hiệp sĩ dạ khách khổng lồ nào đang so kiếm giữa đêm trường.
Xa xa tiếng chó sủa dài. Lần nầy ông Nam Thành giựt nẩy mình, dáo dác nghe ngóng, rồi tần ngần rất lâu ông nói :
- Nghe chó sủa sao mà nhớ nhà quá !
- Tôi cũng vậy. bà Nam Thành đồng tâm với chồng.
Nhưng hai ông bà lại nhớ một làng xa dưới Bắc Liêu chớ không phải nhớ Sàigòn.
Suốt đêm ấy cả nhà không ai ngủ được hết.
Con chó con mà bà Nma Thành xin dưới Ô Ma, kêu cẳng cẳng từ đầu hôm tới sáng. Nó nhớ ổ, nhớ mẹ nó. Thỉnh thoảng từ trên gác, bà Nam Thành hét xuống :
- Chó nà ! Nín đi hôn ?
Nó im giây lát, rồi kêu cẳng cẳng trở lại như củ.
Ông Nam Thành bỗng phát minh ra một điều nầy, nói to lên rồi cả nhà áp nhau trò truyện từ giường của mỗi người.
Ông Nam Thành nói :
- Thấy rõ là nuôi chó ở nhà quê rất cần. Không có nó, lúc nào mình ngủ quên thì nguy. Và vì thế thấy rõ việc nuôi chó ở các thành phố là xa xí. Món xa xí ấy lại có hại. Nó cắn người đi đường, báo hại người ta phải đi tiêm thuốc mất ngày giờ không biết bao nhiêu. Đó là nói trường hợp bắt được chủ nó đền bồi tổn phí. Mà khó bắt biết bao ! Ai làm chứng cho mình là chó ông A chó ông B cắn mình.
Tôi mà có quyền trong chánh phủ, tôi đánh thuế chó ở các thành phố cho thật nặng, nặng hơn cả hột xoàn và rượu huýt ky, tôi cho kiểm tra chó kỹ lưỡng, mỗi năm nội Sàigòn, thâu không dưới trăm triệu bạc.
Cô Hồng vốn đa cảm, bỗng nhớ lại bầy chó bẹc dê trong xóm mà các me Tây khi lui về vườn, bỏ rơi lại. Lũ chó nầy thành chó đói cả, và rất sung sướng được ăn cơm người ta bố thí cho.
- Hồi trước thịt bò mà nó chê, bây giờ bữa nào mà có chút nước cá kho, lũ nó thích quá xá.
- Có một con, sáng nào cũng đi tiệm cà phê cả. Ở đó nó ăn vỏ bánh bao no nê. Mà họ cũng kỳ, tiền đâu mà vứt xuống đất cho mấy con chó vô ích đó ăn cho uổng ?
Cô Quá sợ trộm, lại sợ ma, chạy qua giường cô Hoa mà nằm. Bực bội quá, Hoa thét lên, rồi Quá gây lại, không ai chợp mắt được cả.


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Hiển thị những bài viết cách đây: Sắp xếp theo
Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 2 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]

» ĐÒ DỌC - Bình Nguyên Lộc «


Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 2 khách


Bạn không thể tạo chủ đề mới trong chuyên mục này
Bạn không thể trả lời bài viết trong chuyên mục này
Bạn không thể sửa những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể xoá những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể gửi tập tin đính kèm trong chuyên mục này

Tìm kiếm với từ khoá:
Chuyển đến:

Ai đang trực tuyến?

Ai đang trực tuyến? Trong tổng số 2 người đang trực tuyến: không có thành viên, không có thành viên ẩn và 2 khách
Số lượt người ghé thăm website đông nhất là 304 vào ngày 24 Tháng 11 2024, 12:29

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 2 khách

Thông tin trên được cập nhật trong vòng 5 phút vừa qua
cron
Powered by phpBBVietNam © 2006 - 2007 phpBBVietNam Group based on phpBB
Vietnamese translation by nedka
Founded by tranbc | Content © Trường Trung Học Công Lập Tân Châu