Bài báo viết về Trung thu cách đây... 101 năm Lao Động Cuối tuần số 37 Ngày 14/09/2008 Cập nhật: 5:15 AM, 14/09/2008 (LĐCT) - Nhân dịp Tết Trung Thu, nhà sử học Dương Trung Quốc giới thiệu với Lao Động một bài viết đăng trên số báo 819, ra ngày 26.9.1907 nhân chuyện Hội Nhà báo Việt Nam quyết định xây dựng Bảo tàng Báo chí Việt Nam.
Vào thời điểm này, chữ quốc ngữ mới ở thời sơ khai trên lĩnh vực văn chương, câu chữ còn dùng rất nhiều từ Hán-Việt, cấu tứ vẫn mang hơi hướng biền ngẫu cổ điển, nhiều mô tả các sản vật đến nay khó hình dung nổi, nhưng cái cảm xúc của trẻ thơ về ngày Tết của mình và về xã hội mình đang sống dường như vẫn gần gũi và lay động người đọc hôm nay (xin vẫn giữ nguyên chính tả của bản cũ). ........................
Trung Thu
(Lời tựa của báo: Bài này là của một người học-trò tràng Đông-kinh-nghiã- thục, năm nay mới có 14 tuổi, tập làm văn quốc ngữ theo lối Pháp. Bài làm cốt để trẻ con đọc với nhau. Bản báo xin phép các quý-khách đăng vào để những ông nào vẫn nói rằng chỉ Pháp-văn mới làm được sách cho trẻ đọc, xem xem giá thử cứ tập làm mãi lối này, rồi nước Nam mình có văn được không:)
Giăng sáng quắc, Phố xá ngộn những người. Đây, dình tùng sèng; đầu phố một đám rước, quối phố một đám rước. Nào rồng, nào sư-tử; nào cá nào thiềm-thừ, kéo đàn kéo lũ, như đi tắm sáng giăng tròn.
Chỗ nọ lập trống quân; chỗ kia chăng trống quít. Hàng Đường, Hàng Ngang, nhà nào nhà nấy đua nhau bầy cỗ. Khéo gớm! khéo ghê! kìa đu-đủ gọt ra hoa sói hoa nhài, nọ đùi gà bày thành Tiều-phu, Lão-vọng. Đèn chạy quân, đèn sẻ-rãnh: Trương-phi cuỡi ngựa đi vạch thẳng; vua Thuấn cầy voi chạy chữ công. Cái chạy hoả-lò, cái chạy cát; cái ghép lá nứa, cái vặn bằng tay. Hơi lửa mới biết dùng quay tán giấy.
Bánh dẻo, bánh nướng, đủ các lối bột đường; trái dừa, trái bưởi, thiếu chi loài hoa quả? Giai giai, gái gái, mặt mũi hởn hơ; trán cỗ nhà lại đi ghé cỗ người. Nhà ta khéo, nhà nó vụng; nhà ta nhiều bánh, nhà nó ít sôi.
Ngoài đuờng thì hai bên hè lốc nhốc những trẻ hồ khoan. Anh này thỏ cốc lếu, chị kia cá tí-hon. Lũ lũ lượt lượt, bắt cái hồ khoan! Hết mẹ bán than, đến mẹ bán củi. Bắt cái hồ khoan!
Vui! chá cha! là vui! giai vui, gái vui, nhớn vui, bé vui; trẻ vui chưa lo nghĩ, già vui nhớ thiếu niên.
Duy chỉ có thằng Cõn là không vui...
Chớ thằng Cõn là con nhà ai? nó bao nhiêu tuổi?
Thằng Cõn là con mụ ăn mày, năm nay nó mới lên sáu tuổi.
Nhà nó ở đâu? Nay ở tam quan nọ! mai ở cửa đình kia. Đất làm giường, manh chiếu rách làm chăn. Áo không có, quần không có, chỉ có mụn tã để tối quàng vai cho đỡ lạnh. Cơm không có, bánh không có, hoạ chăng thỉnh-thoảng ai cho miếng cháy khô nhá đỡ đói lòng. Ngày ngày con rắt mẹ loà đi kêu từng cửa, mười cửa hoạ may được một đồng tiền. Mọi khi xin con dễ, nhà nào ăn còn thừa xương xẩu còn nhớ đem cho.
Mấy hôm nay, đâu đâu cũng bận. Nhà dọn bàn độc, nhà bày đồ chơi. Và tiếng trống tiếng cười, lấp mất tiếng kêu thằng ốm đói. Tay cầm gậy rắt mẹ, miệng lậy van ông bà, mắt thỉnh thoảng nghé qua lũ đồng-niên, đương lôi voi rắt ngựa. Nước mắt ứa hai hàng, miệng nuốt nước rãi.
Các anh em ơi , lúc ta bầy đình bầy chùa, có ai nghĩ đến phận thằng Cõn không? Nguyễn Văn Xuân
Nhà báo viết tiếp: "Than ôi! trí trẻ mới nghĩ đến có một thằng Cõn, mà đã thương tâm thế rồi. Những ở Hà-nội ta này bao nhiêu là thằng Cõn". (Đăng Cổ Tùng Báo, số 819, thứ Năm, 26.9.1907)
Dương Trung Quốc
|