NĂM TUẤT NÓI CHUYỆN CHÓ
Chó là con thú đầu tiên được thuần hóa cách đây khoảng bốn chục ngàn năm vào cuối thời kỳ băng hà (Ice Age). Tổ tiên của loài chó là chó sói. Người ta huấn luyện chó để giữ nhà, chăn cừu/bò, quân sự, giúp đở người tàn tật.
Theo quan niệm của người Việt, chó là con vật rất trung thành, nó không bao giờ bỏ chủ. Nếu chủ gặp gian nguy, chó bao giờ cũng liều mình cứu chủ; vì chủ, nhiều con đã xả thân; khi chủ chết, nhiều con ra mộ nhịn ăn chết theo.
Ở các nước Tây phương, nhất là xứ Cờ Hoa, người ta yêu thích chó và được xếp hạng trước đàn ông. Nhất trẻ con, nhì phụ nữ, ba chó, sau cùng là đán ông. Nhiều người ôm ấp chó và đối xử với chó như một thành viên trong gia đình. Họ hôn hít, nâng níu, chăm sóc rất cẩn thận. Họ tỉa lông tắm gội, vào mùa Đông thì mua áo ấm cho chó mặc. Chó được khám bịnh, chủng ngừa và chăm sóc còn hơn con người. Nhiều ngành thương mại phát triển cũng nhờ chó như mấy tiệm mua bán thức ăn và dụng cụ cho chó, nghề chăn dử chó, có cả khách sạn cho chó nếu chủ nhân đi nghỉ mát mà không muốn mang theo chó.
VÀI MẨU CHUYỆN VỀ CHÓ TRUNG THÀNH
Sau đây là vài mẫu chuyện kể về sự trung thành của chó mà NGV truy tìm trên mạng đem về cho bà con xem:
1. Chú chó ra mộ chủ vào 6h chiều mỗi ngày trong suốt 6 năm
Capitan là một chú chó bec-giê Đức được ông Manuel Guzman người Argentina nuôi dưỡng. Khi ông Guzman qua đời vào năm 2006, gia đình ông phát hiện rằng chú chó Capitan cũng biến mất.
Vài tuần sau tang lễ, họ đến thăm mộ của ông Guzman và rất bất ngờ khi nhìn thấy Capitan đang đứng đó chờ họ. Điều đáng ngạc nhiên là họ chưa từng mang chú chó này tới nghĩa trang, và cũng không thể hiểu nổi làm cách nào Capitan có thể lần tới đây và tìm ra chính xác ngôi mộ của chủ nhân.
Kể từ đó, Capitan thường xuyên đi đi về về từ nhà đến nghĩa trang và sống nhờ vào thức ăn thừa mà người quản trang mang cho. Cứ đêm đến khoảng 6h chiều, chú chó trung thành này lại quay trở lại ngôi mộ của ông Guzman, để chủ nhân không phải ngủ một mình.
Nguồn: 24h.com
2. Hachiko – bức tượng về lòng trung thành chưa bao giờ bị lãng quên
Hachiko chính là chú chó giàu tình nghĩa và lòng trung thành với câu chuyện gần như đã đi vào lịch sử. Mỗi khi nhắc đến cái tên ấy, người ta lại nhớ về hình ảnh một chú chó hàng ngày đến nhà ga đợi chủ của mình trở về suốt 9 năm, 9 tháng, 15 ngày.
Chủ của Hachiko - giáo sư Hidesaburo Ueno – làm việc tại Đại học Tokyo (Nhật Bản). Ông nuôi một chú chó và đặt tên là Hachiko. Hằng ngày Hachiko vẫn theo chủ đến nhà ga để tiễn chủ đi làm và chờ đợi ở đó đến khi chủ về. Vào ngày định mệnh 21/5/1925, giáo sư Ueno đã bất ngờ đột quỵ, do xuất huyết não khi đang giảng bài và qua đời ngay sau đó.
Buổi chiều hôm ấy, cũng như mọi ngày, Hachiko vẫn đến nằm ở nhà ga và trông ngóng người chủ của mình trở về. Và cứ thế, nhiều ngày, nhiều tháng, rồi nhiều năm trôi qua, Hachiko vẫn có mặt đều đặn ở nhà ga vào lúc 3h chiều, mặc dù nó đã bị bệnh viêm khớp và đã quá già yếu. Cuối cùng, vào ngày 8 tháng 3 năm 1935 gần 11 năm, kể từ ngày nó nhìn thấy chủ nhân lần cuối, người ta tìm thấy Hachiko -lúc đó đã 12 tuổi - nằm gục chết tại chính cái nơi mà nó đã đứng đợi chủ nhân của mình trong suốt nhiều năm, trong một buổi tối tuyết rơi trắng xóa tại một con phố ở Shibuya. (Những mẩu chuyện về chú chó trung thành.
Nguồn soha.com
3. Fido
Fido là chú chó lai 2 tuổi đến từ Borgo San Lorenzo, Italy. Chú chó được tìm thấy bởi một công nhân nung lò gạch tên Carlo Soriani khi đang bị thương nằm trong khe núi. Soriani cùng vợ mình đã kiên trì chăm sóc chú chó cho tới khi khoẻ lại, thậm chí đặt tên chú chó là “Fido”, Fido có nghĩa là trung thành.
Đúng như tên gọi của mình, Fido bắt đầu đi theo Soriani đến trạm xe buýt ở quảng trường trung tâm ở Luco del Mugello mỗi ngày và đón anh ta khi trở lại từ nhà máy. Vào một ngày năm 1943, mọi thứ đều thay đổi đối với Soriani và chú chó Fido, RAF - không lực hoàng gia Anh đã thực hiện một cuộc đánh bom đột kích trên không nhằm vào Borgo San Lorenzo. Carlo Soriani là một trong những nạn nhân xấu số trong cuộc tấn công đó.
Ngày hôm ấy, Fido vẫn đến trạm xe buýt, nhưng niềm vui chào đón người chủ trở về không bao giờ đến nữa. Rốt cuộc Fido vẫn một mình trở về ngôi nhà của Soriani, nhưng trưa hôm sau nó vẫn quay lại trạm xe buýt để chờ tuyến xe buổi tối, rồi lại thất vọng khi nhìn từng vị khách rời đi. Fido tiếp tục quay lại ngày tiếp sau đó. Một tháng sau, một năm sau, rồi một thập kỉ sau, chú chó vẫn ở đó, đợi chuyến xe buýt đêm mỗi ngày suốt 14 năm.
Fido qua đời vào tháng 6 năm 1958, cô đơn trên con đường lạnh lẽo. Chú chó được chôn cất ngay bên ngoài nghĩa trang nơi Carlo Soriani yên nghỉ.
Để tưởng nhớ chú chó với lòng trung thành với chủ của mình, người ta đã cho dựng tượng đài của Fido ở Borgo San Lorenzo's Piazza Dante.
Nguồn: chungta.com
4. Câu chuyện cảm động về chú chó trung thành và người hành khất
Một câu chuyện về chú chó trung thành như một đầy tớ luôn bên chủ nó dù khi khó khăn. Khi khó khăn mới biết còn ai bên ta. Chú chó đã luôn bên chủ nó dù cho có bị đối xử ra sao và chú chó đã kiệt sức bên chủ khi cứu chủ! Khi sung túc mọi người vây quanh ông lão và khi không còn gì thì tất cả xa lánh ông chỉ có chú chó vẫn theo ông đến cuối cùng!
Chuyện kể rằng trên cây cầu trong ngôi thành nọ có một người hành khất. Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất để mong nhận sự thương xót của khách qua lại.Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ. May mà người qua lại chiếc cầu rất đông, thi thoảng cũng có người đem vài đồng bạc lẻ vứt vào trong bát.
Khi đêm đến, người hành khất sẽ trở về chỗ trú ngụ của ông – một cái vườn rau ở ngoại ô, bị bỏ hoang đã lâu. Một hàng rào xiêu vẹo bao lấy vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều nát, người hành khất già đã lánh rét ở đó được mấy mùa đông lạnh giá. Trong vườn rau còn có một miệng giếng khô, bên giếng có một gốc cây già.
Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của mùa đông. Người trên cầu thưa thớt hẳn đi, lão hành khất đang định sẽ về nghỉ, bỗng từ đâu chạy tới một con chó nhỏ. Con chó bị lạnh tới nỗi run lên từng chập, trõ mõm hít hít cái bát sứt của người ăn mày, thì ra là vì đêm hôm trước ông đã dùng cái bát này để thức ăn. Lão hành khất trong lòng thương xót, liền lấy trong người ra một chiếc bánh bao, khẽ khàng bỏ vào trong bát.
Con chó nhỏ ngước lên nhìn ông hồi lâu, như thể cảm động lắm, rồi gục mặt vào bát ăn lấy ăn để.
Người ăn mày mang con chó về “nhà” của mình, từ đó người và chó quấn quít không rời. Con chó rất thông minh, hễ đói là biết ngoạm cái bát chạy nhắng quanh chủ đòi ăn. Những người đi qua nhìn thấy thế rất ngạc nhiên thích thú, liền thi nhau ném tiền vào trong bát.
Người ăn mày phát hiện ra đây là cơ hội lớn, liền huấn luyện cho con chó. Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm bát xin ăn nhảy tới nhảy lui trước mặt những người qua đường. Vậy là người ăn mày lại càng thu được nhiều tiền thêm.
Người ăn mày bỗng dưng ” phát tài”, liền lấy tiền đi đánh xổ số. Thật là nằm mơ cũng không tưởng được vận số ông lại tốt đến vậy, không lâu sau ông trúng giải độc đắc. Cứ như là số mệnh vậy. Người ăn mày mua lại vườn rau bỏ hoang, rồi từ mảnh đất đó xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại túp lều nát, miệng giếng khô cùng gốc cây già và nếp hàng rào lưa thưa ngày nào ở vườn sau khu nhà mình.
Trong phòng của người ăn mày bày biện đầy những đồ xa xỉ, ông bỗng chốc mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người khi ông rút trong túi ra cả xấp tiền lớn.
“Quý ngài ăn mày” bắt đầu đi gặp gỡ giới thượng lưu, dĩ nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình. Các bà mệnh phụ ra sức ủng hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân ông ra sao. Điều duy nhất làm cho “quý ngài ăn mày” cảm thấy khó xử chính là chú chó nhỏ, bởi những người thượng lưu khác đều nuôi những con chó giống quý, thuần chủng kia!
Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông cắn rách tai một con chó cái giống quí, ngay giữa bữa tiệc. Chủ nhân con chó nổi trận lôi đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.
Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái giếng cũ. Sau đó cho nó vào một chiếc thùng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài và thả xuống cái giếng khô. Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ vẫn ám ảnh ông ta.
Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.
May mà dù thế nào ông cũng không quên mỗi ngày thả xuống giếng vài miếng thịt, vì tiếng sủa của con chó cho ông biết rằng người bạn ngày khốn khó xưa kia vẫn còn sống.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, người hành khất ngược lại cảm thấy không hề vui vẻ, chó nhỏ đi rồi, bạn bè quý tộc của ông ta cũng không hề nhiều hơn, vả lại có một hôm, nhằm lúc ông uống rượu say lướt khướt, đã buột miệng để lộ ra cái thân phận thấp hèn ngày xưa. Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với ông ta.
Người ăn mày cuối cùng hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ đã từng trải qua hoạn nạn với mình mới là người bạn chân chính nhất. Thế mà ông nỡ vứt nó xuống dưới giếng khô. Người ăn mày chạy thật mau đến bên giếng, thả cái cũi gỗ xuống. Nhưng chó con chỉ đi quanh cái thùng gỗ mà không dám nhảy vào trong.
Người ăn mày chạy đi tìm một cái dây to, một đầu cột vào gốc cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con. Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ hãi chút nào. Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi thum thủm, ông vội cắp con chó rồi trèo lên. Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vui mừng liếm mặt người chủ lâu ngày mới gặp lại.
Bác sỹ giỏi nhất trong thành cũng không thể trị nổi bệnh của chó nhỏ. Người hành khất vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày đều cho nó đồ ăn ngon nhất, đi đâu cũng dắt theo. Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.
Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, ông cầm tiền bỏ vào tân tay những người hành khất khác. Thấy những người ấy cảm kích cầm tiền của mình, ông cảm thấy thật là mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu có dự định mới, ông báo cho những người ăn mày trong cả thành tới nhà ông lĩnh tiền.
Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền càng lúc càng đông. Những người được tiền rồi dùng mọi lời lẽ hoa mỹ nhất trên đời để tán tụng ông, khiến ông hưng phấn khôn tả. Đài truyền hình tới, bản tin buổi tối cũng có phóng sự nói về ông.
Ngày thứ hai, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà ông, có những người chẳng phải ăn mày cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền. Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự vui sướng, ngày nào cũng bận rộn chạy qua chạy lại giữa ngân hàng và nhà mình.
Cho đến một hôm, ngân hàng báo cho ông biết tiền trong tài khoản đã hết, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng : Hết tiền để phát mất rồi!
Đám người xếp hàng lập tức biến thành một đoàn hỗn loạn.
Chúng bắt đầu mắng chửi : ” Đồ ti tiện!” “Sao đến lượt tao lại không phát nữa!” ” Dạy cho nó một bài học!”. Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch tới tấp làm vỡ hết cửa sổ. Ông chốt cửa nhà lại, nhưng cũng sắp bị đám người xô đổ đến nơi rồi.
Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn buộc bên miệng giếng, ông vội vã leo xuống. Lúc sắp xuống tới đáy giếng, bất ngờ đầu dây thừng buộc ở miệng giếng bị rơi ra, người hành khất cùng sợi dây vẫn nắm chắc trong tay rơi xuống đáy giếng tối om.
Cảnh sát mất rất nhiều công sức mới giải tán được đám người hung hãn, nhưng ngôi nhà gần như đã biến thành một bãi hoang tàn, những thứ có thể lấy được, người ta đều cướp đi hết.
Thời gian mỗi ngày một qua đi, người ăn mày chỉ đành trú lại ở đáy giếng vừa tối vừa lạnh, ông ta ngóc mặt lên gào với trời, với trăng, chẳng ai nghe thấy. Chó con mỗi ngày chạy đi khắp nơi kiếm thức ăn ném xuống giếng, lúc thì là chiếc bánh bao đã mốc meo, khi thì miếng xương đã biến mùi. Chó con kiếm thức ăn rất khó khăn, vì đầu nó chỉ có thể nhìn ngược đằng sau.
Không làm thế nào được, nó chỉ biết nằm dài ra mà hít hà dưới đất, vớ được miếng thịt hỏng hay gì đó là ngóc dậy chạy về miệng giếng khô ngay. Có một lần, chó con còn vứt xuống cả xác một con mèo chết.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, chó con thậm chí còn không để dành thức ăn cho bản thân, người nó gầy chỉ còn da bọc xương, thế rồi nó yếu đến mức sức lực để đi cũng không còn. Người ăn mày ngày nào cũng gào thét khản cả cổ, chẳng có ai tới cứu ông ta.
Vài ngày liên tiếp chó con không thả đồ ăn xuống nữa, người ăn mày không biết con chó đã xảy chuyện gì. Ông đau đáu nhìn lên mảnh trời hình tròn nhỏ bé trên miệng giếng, biết rằng mình sắp chết.
Một buổi sớm, những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng giếng đánh thức người hành khất khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn hô lên một tiếng.
Ông được mọi người dùng dây thừng đưa lên, ánh sáng mặt trời chói lọi làm ông không mở nổi mắt. Mọi người săm soi người đàn ông lem luốc hôi thối trước mặt: “Nếu không phải thấy có xác con chó con chết ở miệng giếng này, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu của ông.”
Người ăn mày nhìn cái xác gầy guộc của chú chó nhỏ trung thành, nước mắt rơi ướt cả bộ lông dính đầy đất bẩn của nó.
Nguồn: Animal.com
|