CẦU VỒNG SAU MƯA
Ông Tư lò rèn có hai người con gái sanh đôi, cô chị tên Cà còn cô em tên Cải, cả hai đều mang nét đẹp mộc mạc của hoa đồng, cỏ nội. Cái lò rèn của ông là địa điểm vui nhất trong xóm. Đó là nơi qui tụ đám con nít, thanh niên, cùng mấy ông cụ . Con nít tụm năm, tụm ba chơi đùa quanh đó, chúng hay lượm hột mít, hột điều, củ khoai... thảy vô cái lò đỏ rực. Mấy lão ông thì cặm cụi bên bàn cờ tướng, lâu lâu lấy cây kẹp than gắp một cục lửa mồi điếu thuốc rê. Ông Tư tuổi gần năm mươi nhưng trông vẫn khỏe như trai tráng. Nhờ quai búa cả ngày nên hai cánh tay ông có hai con chuột bự tổ chảng làm cả đám trai làng đều ngưỡng mộ, những lúc rảnh rổi họ hay đến đây để thục bể, ngắm thân hình vạm vở của ông và lén lút liếc nhìn hai cô gái xinh xắn lui cui trong bếp. Họ nhìn cho đỡ buồn vậy thôi chớ ai mà hổng biết cả hai cô đều có người đặt cọc, cô Cà quen với anh Ngởi còn cô Cải thì quen với anh Mừng, hai anh chàng nầy lại là bạn thân của nhau. Ông Tư hiền nhưng cộc, cộng thêm tánh ít nói và gương mặt nghiêm nghị cho nên hai chàng trai rắp ranh bắn sẻ chưa bao giờ dám léo hánh quanh cái lò rèn, có lẽ họ ngán cây búa tạ to đùng và cái lò hừng hực lửa. Mấy cô gái trong làng thỉnh thoảng đi ngang, kéo cái nón lá che kín một bên mặt, chân quíu lại bởi tiếng huýt sáo của đám con trai. Thỉnh thoảng lại có một chiếc xe bò lộc cộc chạy qua, vấp cái ổ gà rồi tưng lên giống như mấy đứa con nít mừng đến nhảy cởn khi gặp bè, gặp bạn. Mấy chú bò cũng nghiêng đầu nhìn vô rồi góp vui bằng tiếng rống đùng đục, dài thòn. Những cù lao rải rác trên mấy con sông lớn miền tây nầy, mỗi năm được nước lũ chở phù sa bồi đấp, mang lại màu xanh cho những cánh đồng bạt ngàn, hoa trái cho các khu vườn râm mát. Các mùa vụ gieo,trồng, gặt, hái... liên tục, tạo cơ hội cho trai gái trong làng gặp gở, làm việc bên nhau và nãy sinh tình cảm. Những mối tình thơ mộng ấy đa số đều suôn sẻ bởi bà con cùng nếp ăn, nếp nghĩ, nếp làm, ai cũng chơn chất và cùng lấy chữ “hòa”làm gốc. Mối tình của hai chị em cùng hai người bạn thân ấy xem ra rất xuôi chèo mát máy, họ còn tính sẽ làm đám cưới chung một lượt cho vui. Rồi trắc trở xảy ra khi anh Mừng, người thương của chị Cải, đang đi thăm câu trên sông thì bị tàu tuần dương áp lại hốt đi. Chưa được bao lâu thì đất nước thay đổi màu cờ, ảnh bị kẹt trong một chiếc tàu rồi trở thành dân di cư bất đắc dĩ, bỏ lại sau lưng một mối tình đang nồng mặn và một người con gái hết sức đau buồn. Một hôm má anh Ngởi trợn trắng hai con mắt như hai cái hột gà so khi nghe ảnh thúc bả đi cưới chị Cải cho ảnh, bả hỏi : -Hôm trước mầy biểu tao đi nói con Cà cho mầy, rồi bây giờ kêu đi cưới liền con Cải là nghĩa làm sao ? Anh Ngởi cãi lại, ảnh nói bà nghe lộn tên rồi năn nỉ ỉ ôi suốt. Cái đám cưới được tổ chức rất đơn sơ bởi hai nhà đều thuộc dạng chỉ đủ ăn, đủ xài. Đám cưới vừa xong người ta thấy anh Ngởi không ở nhà mà cất cái chòi trong đám rẫy rồi ở lại luôn để ban ngày tưới dưa, còn ban đêm đi giăng câu ở con kinh gần đó. Mỗi buổi sáng chị Cải đem cơm vô cho anh rồi xách cá về bán. Mấy tháng sau chị Cải sanh một đứa con trai, chị nói mình đẻ non nhưng hổng ai tin bởi thằng nhỏ nặng tới ba ký rưởi. Hồi xưa và hình như bây giờ cũng vậy, con gái đều về nhà cha mẹ ruột để sanh con đầu lòng. Chị Cải cũng về căn nhà có cái lò rèn ấm áp để đẻ rồi ở lại luôn. Từ đó cách vài hôm anh Ngởi lại bơi xuồng ghé qua một lần, xách cái rộng đựng mấy con cá nhảy soi sói đưa cho bà Tư rồi bồng và hun chùn chụt thằng con mà ai cũng nói là giống anh như đúc. Chỉ có lúc ấy mới thấy anh cười, gương mặt tạm lấy lại nét vui vẻ như xưa. Trên trán anh, giữa hai đầu chưn mày không biết từ hồi nào đã xuất hiện mấy nếp nhăn. Chị Cà cũng thay đổi tính tình rỏ rệt, đang làm công chuyện chị bỗng thở một hơi dài thậm thượt.Tiếng cười giòn rụm của chị, điều duy nhất để phân biệt với chị Cải, cũng không còn được nghe thấy nữa. Bà con hay bắt gặp trong cái chòi lá giữa đồng có một người con gái ngồi vá áo, nấu cơm, và vì hai chị em song sinh giống nhau như tạc nên chẳng ai biết đó là chị Cà hay chị Cải. Một hôm má anh Ngởi ghé chòi đưa cho ảnh một cái thơ, ghi địa chỉ người gửi ở tận bên tây, anh Ngởi mở ra và đọc: “Gởi cái thằng trời đánh! Tao nghe nói mầy cưới con Cải rồi phải không ? Mầy có phải là bạn tao hông vậy ? Bộ mầy tưởng tao chết mất xác rồi muốn làm gì thì làm hả, thiếu gì con gái mà mầy …” Anh Ngởi không thèm đọc hết cái lá thơ dài thòn toàn những lời mắng chửi đó. Anh tức tốc về nhà viết trả lời liền một cái thơ như thế nầy: “Ê cái thằng ôn dịch kia! Nhận được cái thơ, biết mầy còn sống là tao mừng hết lớn. Mầy chưa biết ất giáp mà chửi tùm lum làm tao tức muốn bể bụng, mầy mà đứng gần chắc bị tao ghì đầu mà đập cho một trận tơi bời. Mầy gài mìn vô bụng con gái người ta rồi dông mất biệt, báo hại tao lo gỡ gần chết, không biết mang ơn còn chửi tao te tua là nghĩa làm sao ? Thôi, tao không nói dài dòng, mầy ráng lo về đây cho sớm mà nhận lại vợ con của mầy, bảo đảm còn nguyên không mẻ một miếng. Cái thằng con của mầy nó dễ thương hết biết, giống mầy như lột mà ai cũng nói giống tao, làm tao mắc cười quá mạng, hổng lẽ tao với mầy cũng là anh em sanh đôi nữa sao ? Tao mê thằng nhỏ lắm ! Nhớ nó ngang nhớ con Cà, nên ngày nào cũng ghé. Má vợ mầy không biết gì ráo nhưng hình như ông già vợ của mầy đang nghi, ổng hay hỏi tao mấy câu trật búa, bởi vậy tao né ổng gần chết! Tao nói trước cho mầy liệu hồn, coi chừng ổng đang rèn cái liềm bén ngót mà cắt cổ mầy như cắt lúa. Nói chơi vậy thôi, mầy đừng có tưởng thiệt rồi không dám về là chết chùm cả đám. Mầy ráng về cho thiệt lẹ giùm tao. Bữa trước có gia đình bên Châu Ma qua coi mắt con Cà làm tao lo mất ăn mất ngủ. Cho dù nó hứa đợi tao, nhưng biết đâu năm dài tháng rộng, rủi gặp mối tốt ba má nó ép rồi nó xiêu lòng ưng đại người ta thì tao phải làm sao đây? Nhận được cái thơ nầy là mầy phải về liền đó nghe, tao lạy mầy ! Bạn mầy Ngởi. Năm sau, nhà ông Tư làm một cái đám cưới rất hoành tráng. Cái đám cưới nầy hết sức là đặc biệt có thể nói là vô tiền khoáng hậu, bởi có đến hai chú rễ và hoa Cải, hoa Cà sao mà đẹp lộng lẫy chẳng hề thua các loại bông vương giả. Chị Cà, chị Cải vốn đã giống nhau lại cùng mặc mấy cái xoa rê cùng màu, cùng kiểu nên ba má mấy chỉ còn nhìn hổng ra huống hồ người khác. Chỉ có thằng nhỏ là biết hơi má nó nên hể lâu lâu chạy ra túm vạt áo của ai thì người ta biết đó là chị Cải. Anh Ngởi, anh Mừng cùng mặc đồ vét coi hết sức là bảnh tỏn. Anh Mừng thì chắc đã quen nên điệu bộ tự nhiên, ngược lại anh Ngởi cứ ngọ ngọe cái cổ suốt, nhìn mà sốt ruột cứ mong cái đám làm lẹ lẹ cho xong để ảnh cởi phắt bộ đồ ra cho thoải mái. Cái lò rèn hôm ấy qui tụ hầu hết già, trẻ, gái, trai trong xóm, ai cũng được mời và tiếp đón nồng hậu. Mấy đứa con nít là vui nhất, đứa nào trên tay cũng cầm bánh kẹo. Có đứa lần đầu tiên biết mùi vị của sô cô la, nhăn mặt chê đắng. Có đứa nhả vội cái miếng phô mai vừa cắn trong miệng ra rồi ném luôn cái phần còn lại đang cầm. Có đứa nhai sing gum thấy thơm, ngon quá nên dù được dặn là phải nhả xác ra nhưng tiếc nên nuốt luôn. Bà con cô bác ai cũng quần áo bảnh bao và mặt mày tươi rói, họ nói cười rôm rả, rồi rỉ tai nhau …Hóa ra bấy lâu nay ai cũng nghi, kể cả vợ chồng ông Tư mà không ai dám nói.
|