CÂY, LÁ CHUỐI
Không có ông ngoại và cây chuối chắc tới bây giờ tôi cũng chưa biết lội. Con nít ở quê tôi thuở trước, chưa biết đi là đã được bồng xuống sông để tắm. Chúng bị kẹp cứng bên hông, bị bàn tay của má, của chị với ngón cái miết mạnh, kỳ cọ khắp người để tẩy sạch lớp bụi đất gọi là “hờm” bám trên da. Chúng được gội đầu bằng cục xà bông [nhà nào sang thì xài xà bông thơm hiệu cô Ba, còn hầu hết đều xài xà bông đá], rồi bị bịt chặc hai cái lỗ mũi để nhúng đầu xuống nước. Mấy lần đầu tụi nó hết hồn chới với nên khóc la chói lói, sau đó lại ghiền cứ đòi ”hụp” hoài. Năm, sáu tuổi chúng được nằm sấp trên hai cánh tay của người lớn rồi “tập tầm vũng” [đạp nước] rầm rầm để tập lội. Khi hai chân đã đạp đều và đủ mạnh, chúng được cho ôm cây chuối để nổi lên mặt nước rồi tự mình xoay sở, chừng vài tháng sau là có thể bỏ cây chuối ra rồi. Những đứa nhát lâu biết bơi phải ráng bắt cho bằng được một con chuồn chuồn, cho nó cắn rún để tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Cây chuối tốt biết mấy! Cho ta hết thảy những gì mà nó có từ củ, thân, hoa, trái và lá nữa! Lá, ngoài nhiệm vụ thanh lọc không khí và làm mát đất, còn nhuộm màu xanh thắm cho tuổi thơ, đóng một vai tuy thụ động nhưng hết sức là quan trọng trong những tháng năm thơ ấu của tôi. Với những bé gái nhà quê, lá chuối là nhà, tiền, y phục, thực phẩm… trong các trò chơi. Lá chuối được quấn quanh thân để làm quần, làm áo trong những tuồng hát. Chúng được xé thành từng sợi thật nhuyễn máng lên hai vành tai rồi kéo lòng thòng dưới càm để làm thành một bộ râu, được kết thành cái thúng tròng lên đầu giả làm mão. Chúng được gác lên mấy thanh tre, lợp mái cho những căn nhà chòi, vừng xung quanh làm vách và lót dưới đất làm chiếu… Được cắt thành những miếng hình chữ nhật, lớn nhỏ khác nhau tùy theo mệnh giá để giả làm tiền. Hồi đó mì là món ăn cao cấp nhất, nên chúng tôi hay chịu khó xé tan nát tấm lá chuối ra lừng sợi nhỏ như cọng nhang để giả làm mì. Nó bán đắc hơn cái món bùn quậy sệt sệt làm cháo, hay trấu làm cơm. Với người lớn lá chuối càng được quí hơn gấp mấy lần bởi thiếu nó thì chẳng thể làm được các món bánh truyền thống như bánh tét, bánh ít, bánh ú…Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là dùng để gói. Những gói cơm mang ra đồng được bọc trong lá chuối. Những món xôi đậu, xôi bắp bán mỗi sáng của dì Ba, mợ Bảy ngày xưa cũng được trét đều lên đó! Những trái chùm ruột, trứng cá, ổi, mận…được túm vào lá chuối bỏ vô cái rổ để trên bốn chân của cái ghế đẩu chổng ngược, đặt cạnh đường lộ cái mà bán với giá năm cắc một gói. Lá chuối còn có mặt trong hầu hết các món bánh quê thuở ấy. Những cái bánh tai yến, chuối chiên, chuối nướng… vừa vớt ra khỏi lò, khỏi chảo là nằm liền lên miếng lá chuối để trao cho những bàn tay nhỏ xíu, với những cái miệng nhỏ xíu vừa chu mỏ thổi, vừa cắn, vừa nhai…Món bánh xèo được đặt cẩn thận trong cái nia to có lá chuối phủ kín, từng cái nằm chồng lên nhau với một miếng lá chuối nhỏ làm vách ngăn để khi lấy ra chúng không dính rách. Hiếm có loại lá nào được tận dụng tối đa như lá chuối, ngay cả khi chúng đã chết khô, chết héo. Hồi đó mỗi lần con heo nái cắn ổ là ngoại tôi đi cắt một ôm lá chuối khô về trải xuống sàn cho nó nằm. Những miếng kẹo bánh tráng mà ông tôi rất thích được bọc riêng từng cái trong lá chuối khô. Những miếng cốm nếp, cốm chùi [bắp] cũng được hưởng sự chăm sóc chu đáo tương tự. Những bánh thuốc lá cũng được ủ trong nó cho dịu lại. Cả cái hủ rượu ngâm trái chuối hột cũng được nó nút lại cho khỏi bay hơi. Nó còn được chèn cứng mấy gáo mắm để làm thành cái nắp đậy rất kín và theo tôi thì nhờ có nó mà món mắm mới ngon đến vậy! Có những món ăn mà lá chuối còn được dùng như chất xúc tác, giúp cho sự lên men dễ dàng hơn như cơm rượu, mắm thái chay…chẳng hạn. Cái thời mà bà con còn xử dụng cái dĩa đèn đốt bằng dầu cá thì các món hàng hầu hết đều gói bằng lá, như lá sen, lá chuối…Lá sen hiếm, mềm và khó rách hơn nên được gói mấy món hàng mắc tiền như thịt quay, xá xíu, phá lấu… hoặc những món ăn ướt như bánh tầm bì nước cốt dừa. Lá chuối có nhiều hơn, chúng được dùng gói các món còn lại, cả sống lẫn chín như bắp nướng, bánh bò, thịt heo, rau cải… Cây chuối ngày xưa hể nhà nào có vườn là có nó. Ngay cả những người từ xứ xa đến ở đậu trên đất của người khác. Họ chỉ dám cất tạm những căn nhà nhỏ nhoi bằng vài chiếc chiếu ráp lại, cũng ráng trồng ở sát sàn nước một bụi chuối cho mát đầu, mát mắt và để lấy thân, lá, trái mà xài. Hoa [bắp chuối] và trái của nó ai mà không dùng đến. Bắp chuối có mặt nhiều nhất trong các bữa cơm. Nó thêm mùi, thêm vị cho món canh chua, mắm kho, gỏi…Ngoài bắc thì “con gà cục tác lá chanh” còn trong nam thì “ò ó o chuôi… chuôi… chuối…”. Nồi cháo gà, cháo vịt chẳng thể nào thiếu cái thau gỏi đi kèm mà bắp chuối hoặc cây chuối non cùng rau răm đóng vai nam, có khi là vai nữ chánh. Chuối chín rộ cả quầy gần trăm trái nên ngoài dùng làm các món bánh, chuối chưng, chuối nướng, chuối nấu…nó còn chen vô những bữa cơm. Nhờ có nó mà cái nồi cơm gạo đỏ với mỗi một tô mắm chưng tóp mở, hay trách cá hủn hỉn kho sền sệt thôi cũng được vét tới tận đáy! Thân cây chuối cũng không kém phần quan trọng. Những nhà quá nghèo không sắm nổi chiếc xuồng, vào mùa nước thường kết chúng lại thành bè để chống đi từ nơi nầy qua nơi khác. Bẹ chuối của các cây già có những đường gân rất chắc nên được tước để làm chỉ lược. Ở cây con nó được xắt thật mỏng làm rau ghém chấm mắm kho hay trộn gỏi, rất là ngon! Những cây chuối đã trổ buồng là thức ăn chính cho heo. Phải dùng cây dao Dâu thật to, dài cả sải tay, rộng bằng bàn tay người lớn với cái cán dài như cây giáo để thái thành từng lát mỏng rồi đem quyết nhuyễn. Chúng được cho vô cái khạp da bò, chắt nước cơm vo và rải muối vào để lên men vài ngày rồi mới vớt đổ ra máng trộn cám với cặn mắm [cá ủ để làm nước mắm, sau khi nấu thành nước mắm xong, xác được giữ lại, đây là món khoái khẩu của mấy con heo] mà cho heo ăn. Hối đó, mỗi lần má xắt chuối là tôi hay ngồi kế một bên, lấy cái lỏi tròn xoe của nó mà xếp lên cái nia con con giả làm bánh bèo đem bán. Củ chuối ít được dùng hơn, giữ vai trò của một vị tướng cứu khốn phò nguy nên chỉ xuất hiện trong những hoàn cảnh ngặt ngèo. Ngoại tôi hay nhắc về cái năm Thìn bão lụt xa xưa, khi ấy lúa trong đồng bị chết úng hết bà con phải đào củ chuối lên nấu ăn cho đở đói. Bây giờ mỗi lần ăn mấy cái bánh đựng trong bịt ni lông là tôi bỗng thấy buồn. Nước tôi lá chuối đâu có thiếu vậy mà bà con, thà đem bỏ chớ chẳng ai thèm dùng, cho dù nó vừa có giá trị về kinh tế vừa giúp ích cho môi trường. Những tấm lá chuối khi mãn kiếp lại được trả về lòng đất rồi nhanh chóng biến thành phân bón. Chúng đến và đi rất êm đềm chẳng để lại một chút hậu quả nào cho người, cho đất. Chúng cho ta nợ rất nhiều mà chẳng bao giờ đòi lại, lấy lại một thứ gì! Xin cám ơn cây chuối, người bạn hào phóng, hiền lành, tận tụy, thân thương!
|