HÒ Bà hai “HÒ” nhỏ tuổi hơn nhưng tóc bạc và răng rụng nhiều hơn ngoại của tôi. Bà chắc cũng xài ống ngoái trước và nhiều hơn ngoại luôn, nên suốt ngày cứ thấy cặp môi bà đỏ lòm. Các ngón cái và trỏ của bà cũng đỏ bầm như bị giập, bởi bà cứ cầm cục thuốc xĩa chà hoài trên hai hàm răng thưa rỉnh rồi nhét nó vào góc miệng. “Hò” không phải là cái tên của bà, đó là nghệ danh vì ngày xưa bà hò rất hay. Cô bác trong xóm, hễ nhắc đến bà là người ta lại nhắc luôn cái chữ “HÒ” ấy. Nghe đâu ngày xưa bà rất đẹp. Tiếc rằng bà không có một người con gái nào để kế thừa cái tài, cái sắc đó. Trong xóm tôi ai cũng gọi nhau bằng thứ, số người trùng thứ rất nhiều nên người ta phải gọi kèm theo tên( chỉ khi nào không có mặt họ). Không hiểu sao cái tên vốn đặt ra để dùng, lại bị gói kín và đem giấu biệt. Trừ cái tụi con nít con nôi ăn hôi bù xít cứ bị réo tên ra rả, chớ người lớn thì chẳng ai dám gọi đích danh. Nếu có cũng chỉ trong những cuộc khẩu chiến mà thôi ! Điều nầy họa hoằn lắm mới xãy ra. Mấy đứa bạn của tôi, có đứa còn chẳng biết tên ông bà của nó. Thứ chỉ có từ hai đến mười là hết. Thời ấy không có dụng cụ “thắng đẻ” như bây giờ nên con nít cứ chui ra thoải mái. Các bậc cha mẹ cho dù không chắc là sau đứa thứ mười có phải là cái đứa cuối cùng hay không, cũng cứ gọi đại nó là út. Nhiều người nguyên liệu còn dồi dào nên ráng nặn thêm một vài sản phẩm nữa, lúc đó sẽ có Út Thêm, Út Nữa, Út Dứt, Út Mót, Út Nhứt, Út Nhì… Thứ ít quá nên nhiều người phải xài chung. Để phân biệt, bất đắc dĩ người ta phải trưng dụng cái tên. Muốn tránh xích mích nên hễ ai có một cái nghề, cái tướng, cái tật, cái tánh hoặc cái tài đặc biệt thì mấy thứ ấy được xài thế liền. Cho nên mới có Năm Câu, Baỷ Cao, Chín Móm, Tư Liệu, Tám Kẹo, Ba Đờn…Bà Hai nhờ hò hay quá nên cái chữ “Hò” chiếm hết chỗ, chẳng ai còn nhớ tên bà nữa, hổng chừng cả bà cũng quên béng nó luôn. Tôi thường tiếc cho mình ra đời sao quá muộn. Không được sống vào cái thời mà những tiếng hò trên đồng, trên sông chan chứa như khí trời. Bây giờ những cảnh miệng hò, tay gặt chỉ thấy được trong những phim tài liệu. Chẳng phải không còn ai ưa chuộng cái món ăn tinh thần đó! Có điều sức người phải chào thua mấy phương tiện nghe nhìn hiện đại. Dù vào thời đó pin con ó khá mắc, nhưng bà con nào ra đồng cũng kè kè cái radio ấp chiến lược bên mình. Nó thuộc hạng con cưng, được cho “ăn” đầy đủ để có sức mà rót đầy lỗ tai của mọi người, ở mọi nơi, vào mọi lúc, chỉ đến khi chủ đi ngủ mới được ngưng. Tôi còn nghiệm ra một điều, những việc hay, việc tốt bà con ta chỉ dám làm lén thôi, ít dám đường đường chính chính, chắc sợ bị coi là ham nghe khen. Nhứt là mấy cái chuyện hát hò lại càng mắc cỡ dữ dội. Bà Hai không còn ra đồng, cũng không có cháu nhỏ nên chẳng còn cơ hội biểu diễn, tài năng đành mai một. Nhàn cư vi bất thiện, bà sợ ở không, bị rủ đánh tứ sắc riết đâm ghiền, nên làm mấy món ăn vặt để bán lai rai. Khách hàng của bà chủ yếu là tụi tôi, cái đám con nít lúc nào cũng thiếu ăn, lúc nào cũng thèm đủ thứ. Bà làm bánh gì cũng ngon, đặc biệt nhứt là món cơm rượu. Cơm rượu của bà rất thơm, rất dịu, ngọt lừ cho dù chẳng bỏ một hột đường nào. Điều nầy tôi dám khẳng định vì vào thời buổi đó đường cát mắc mỏ lắm. Chỉ nhà khá, nhà giàu mới dám xài. Hôm ấy tôi ngồi xuống cái ghế tre đặt trước sạp cơm rượu của bà để mua một chén. Bà đang bán ế nên thấy tôi mua là mừng lắm. Lúc nhìn bà lấy cái muỗng nhỏ xíu, cạn xợt xúc thật nhẹ tay từng viên cơm rượu tròn vo, cho vào cái chén cũng nhỏ, tôi chợt nảy ra một ý định nên hỏi: -Bà Hai ơi, hồi xưa bà hò hay lắm hả? Bà nhìn tôi, mắt le lói sáng, cười rồi trả lời: -Ai nói mà con biết? -Má con. Bà hò cho con nghe một câu thôi có được hông? Thấy bà chần chừ tôi nói: -Con thích nghe hò lắm! Ngoại con nói ngày xưa người ta vừa làm công việc vừa ráp nhau hò thiệt là vui. Bây giờ hổng còn nữa con thấy tiếc quá! Bà nói bằng một giọng bùi ngùi : -Thời nay thiên hạ thích nghe ca vọng cổ trong “la dô” hơn, có hò cũng hổng ai nghe. Để bà dạy cho con mấy câu. Bà đưa chén cơm rượu cho tôi, nhổ miếng bả trầu trong miệng ra, đi lại cái lu trước hàng ba múc một gáo nước đầy xúc miệng. Kéo chéo khăn vắt trên vai lau cho khô, rồi không ngồi xuống mà đứng hò:
-“Hò hớ ớ ơ … Hò chơi cho vui ruộng vui đồng Nào ai cướp vợ giựt chồng của ai”
Có lẽ mỗi lần hò đối, trước tiên người ta phải nêu rõ mục đích. Ngày xưa chắc bà hay bắt đầu bằng câu nầy, nên bây giờ quen miệng. Làm nghề nông, mỗi lần tới mùa, tới vụ thì cả vợ chồng con cái đều kéo rốc ra đồng cùng làm. Ngay mấy đứa đang đi học cũng phải nghĩ ngang để phụ hái đậu, bẻ bắp, đào khoai…Chồng người nầy hò, vợ người khác đối, cho nên phải nói trước để tránh chuyện ghen tuông. Như để khẳng định điều đó bà lại hò tiếp, lần nầy mục đích lại khác:
-“Hò hớ ớ ơ… Hò đây cho nên cuộc vuông tròn Trai son hò với gái son Ai mà đủ gióng, đủ đòn Đủ chồng, đủ vợ, đủ con thì đừng hò…”
Tôi đâu ngờ đến giờ bà Hai vẫn giữ được một chất giọng rất truyền cảm đến vậy! Hai bàn tay tôi, một bên bưng chén, một bên cầm cái muỗng bên trong có một viên cơm rượu, đưa gần tới miệng rồi ngưng ngang ở đó. Gương mặt đầy vẻ ngưỡng mộ của tôi khiến bà cười một cách hài lòng. Bà còn định hò tiếp thì dì Sáu La ghé vô (dì nầy cũng hổng phải tên La, tại dỉ nói lớn và nhiều nên bà con đặt cho dỉ biệt danh “Ống tà la”, tức là cái loa, gọi là La cho gọn), dì nói: -Trời phật ơi! Dì Hai hò hay quá xá, vậy mà lâu nay im ru uổng quá! Bà Hai cười lỏn lẻn, mắc cỡ như con gái. Dì Sáu hình như là mối ruột của bà Hai, nên khi dì xề xuống, bà Hai không hỏi gì hết mà múc cho dỉ một chén cơm rượu nhiều gấp đôi tôi. Tôi muốn nghe bà Hai hò thêm nên xúi dì Sáu: -Dì Sáu đòi bà Hai hò nữa đi ! Dì Sáu chắc cũng thích nghe hò nên không chờ tôi nhắc đến hai lần, dì giục: -Làm thêm vài câu cho hai dì cháu tui nghe đã cái lỗ nhĩ đi dì. Bà Hai lắc đầu: -Thôi già cả rồi, hò mấy câu huê tình người ta cười chết! Dì Sáu năn nỉ: -Thì dì lựa mấy câu khác mà hò, thiếu gì ! Bà Hai có lẽ cũng muốn ôn lại thời kỳ oanh liệt của mình, nên tằng hắng một cái để lấy giọng. Lần nầy bà không đứng lên, ngồi mà hò tiếp:
-“Hò… hớ… ớ… ơ… Cái áo gấm đó mặc đây mua, đây cắt, hai vạt bằng chang một bên thêu phụng, một bên thêu loan Cái cổ viền vàng đơm hàng nút đỏ Trách bạc tình lang vắt chanh bỏ vỏ Giận sự đời… chớ giận sự đời …vợ nhỏ cưng hơn”
Thấy cái mặt của dì Sáu và tôi ngớ ra thán phục, bà hò tiếp:
-“Hò…hớ…ớ…ơ… Cô kia bới tóc đuôi gà Nắm tay cô laị hỏi nhà cô đâu Nhà tui ở dưới đám dâu Ở trên đám đậu…Ờ …ở trên đám đậu đầu cầu ngó qua Ngó qua đám bắp trổ cờ Đám dưa trổ nụ…chớ đám cà trổ bông…”
-“ Hò…hớ…ớ…ơ…Tay bưng quả nếp vô chùa thắp nhang, lạy phật xin bùa cho anh đeo.
Bà càng hò càng hay. Đang có trớn bỗng ông Tư Sói chạy chiếc xe đạp ngang qua. Chắc ổng nghe được câu hò cuối nên dừng lại nói: -Cô nhớ xin thêm một sợi dây bùa cho tui đeo nghe cô Hai ! Bà Hai cười, mắng giỡn: -Cái anh mắc dịch nầy. Có hai bà vợ dữ như chằng tinh gấu ngựa mà còn hổng sợ. Gìa cúp bình thiếc còn bày đặt, không sợ thiên hạ chê cười. Bộ hổng nghe người ta nói:“Gìa thì sắm giỏ sắm khăn, già đâu lại sắm linh lăng, đồi mồi”. Hai câu đó bà nửa hò nửa đọc, âm điệu nghe cũng du dương lắm ! Ông Tư đã không giận mà còn cười khà khà, ông trả lời: -Cô hai ơi! “Tui đây già mặt già mày. Chưn tay già hết chớ dạ dày còn non”. Bà Hai chưa kịp lên tiếng thì dì Sáu La đã ra miệng: -Bộ cậu Tư hổng biết là “Một vợ thì nằm vườn Lèo, hai vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm” hay sao, mà còn đòi rinh thêm dì Hai cho khổ vậy ? Ông Tư liệu sức mình không đương cự nổi, bởi “hai chọi một, không chột cũng què” nên nhấn bàn đạp chạy tuốt. Dì Sáu cũng vét sạch chén cơm rượu, móc tờ giấy một đồng trả cho bà Hai rồi đi. Tôi sờ túi, năm cắc bạc mất tiêu, Hết hồn nói lấp bấp một mình: -Năm cắc má mới cho đâu mất biệt rồi ? Bây giờ tính làm sao đây trời ? Bà Hai hỏi: -Bây trả tiền trước rồi còn năm cắc nào nữa? Tôi mừng hết lớn, chợt nhớ ra tụi tôi hay bị đòi coi tiền rồi mới bán. Chắc mấy tiền bối con nít ngày xưa hay ăn liều, ăn mạng, nên cái vụ trả tiền trước đã thành truyền thống. Hôm nay tôi bị tiếng hò của bà Hai khuấy đảo tâm hồn nên quên đi mọi sự, thấy dì Sáu móc tiền ra trả bèn bắt chước. Cũng may được bà Hai nhắc, bèn thở một hơi nhẹ nhỏm. Niềm sảng khoái do mấy câu hò của bà Hai đem đến vừa chạy đi, đã chạy ào về còn nhanh và mạnh hơn lúc trước. Tôi vừa đi vừa nhảy tưng tưng, chân nhẹ bổng còn cái hồn bay bổng.
|