CÁI CỐI GIÃ GẠO CỦA NGOẠI
Cái cối nằm ngoài sân cạnh cầu thang, nơi lỏm vô của căn nhà cầu có không vách. Từ khi tôi biết nhớ cho đến ngày xa quê, khoảng hai mươi năm, cái cối vẫn ở yên một chỗ. Đó là vị trí lý tưởng, được cả cây me cổ thụ và cây vú sữa che mưa, che nắng. Nhưng có lẽ cái lý do khiến nó bất di bất dịch, phần lớn vì nó hết sức nặng, cho dù được làm từ cây. Tôi nghe ngoại kể rằng, ngày xưa khi ông của ông đặt chân đến đây, quê tôi hãy còn hoang sơ lắm ! Trong lúc đào đất để làm đìa chứa nước tưới ruộng và giữ chân mấy con cá khi mùa lũ qua đi. Ông cố đã phát hiện một khúc cây hết sức to, đen thui, cứng như đá, được chôn sâu dưới mấy thước đất. Hầu như phải gom hết nhân lực và vật lực của cả xóm mới đưa được nó về nhà. Một người thợ cối, được ông mời về để biến nó thành cối giã gạo. Công việc đó kéo dài cho đến nổi, cung cấp đủ thời gian cho anh thợ cối và cô con gái út của ông cố thương nhau. Người thợ ấy sau nầy đã thành con rể của ông. Cối rất to, cao khoảng bảy, tám tấc. Chỉ làm từ một khúc gỗ duy nhất. Cái lỗ hỏm tròn quay trong cối có đường kính khoảng bốn tấc, chứa hơn hai chục lít. Vành bao quanh dày hơn hai tấc, với bốn góc được đẻo vuông vức. Ở nơi hai cạnh gặp nhau tạo thành một góc vuông, cách miệng cối chừng hai tấc, bị khoét sâu vào khoảng năm phân, tạo cho phần chân có hình trụ. Phải chăng dạng cối theo cái kiểu dưới tròn trên vuông ấy, thể hiện lòng mong cầu mọi sự đều được vuông tròn, bền bỉ, như trời, như đất? Cái cối giã gạo của ngoại, cực gấp đôi người bạn láng giềng của nó là cái cối xây bột. Ngày nào nó cũng bị rêm mình bởi bà con trong xóm, người đang giã gạo, người chờ quết chuối. Cái cối có thể chịu đựng được những nhát chày liên tục, nên ngoại đẻo tới ba, bốn cái chày. Người ta có thể giã một mình hoặc cùng hai ba người nữa. Một trong những kỷ niệm êm đềm nhất của tôi, là cảnh giã gạo trong những đêm rằm: Tiếng chày nện trong cối, gõ trên miệng của những nhịp chày đôi, chày ba; Tiếng cười nói của người lớn; Tiếng chân dồn dập, tiếng kêu ré lên của những đứa trẻ rượt bắt nhau trong các trò chơi… Tạo thành một chuổi các âm trầm, bổng, nhịp nhàng, khiến bầu không khí trở nên vui tươi, ấm áp . Cái cối ấy cũng bị chi phối bởi những biến chuyển của xã hội, cũng có những tao ngộ và chia ly, cũng có những mùa đi qua đời nó. Thoạt đầu thức ăn của nó chỉ là lúa gạo, nhưng theo thời cuộc, đã được thêm vào những món khác và thay đổi dần. Vào thời của ngoại, chưa có nhà máy xay. Lúa được chế biến thành gạo trong cái cối xay hình chữ thập, quay bằng tay. Cối xay gồm có hai phần, đặt chồng lên nhau. Hai thân cối đều có hình trụ, thân dưới cao khoảng sáu, bảy tấc, thân trên ngắn hơn, chúng đều được những nan tre vót mỏng bao quanh. Tay cối được gắn vào thân trên, gọi là tay vì nó khiến cho cái cối có dáng của một người đứng dang tay. Ở mỗi cánh tay có khoét một lỗ nhỏ, vừa đủ để cái mỏ của giàn xay hình chữ T móc vào. Bên trong, những nan tre được xếp đồng tâm như mấy cây căm trên bánh xe. Khoảng cách từ hai nan tre rất nhỏ, được đổ đất sét vào để lấp kín. Ở mặt tiếp xúc giữa hai thân cối, những nan tre hơi nhô lên chưa tới một ly. Lúa được trút vào cái miệng hình phểu của thân trên, nhờ lực quay nó bị lùa xuống rồi rải đều lên mặt cối phia dưới. Những nan tre hơi nhô lên trên cả hai mặt sẽ chà xát vào hột lúa làm nó tróc vỏ. Lúa ngoan ngoản cởi bỏ cái áo màu vàng mặc bên ngoài, nhưng vẫn còn giữ rịt chiếc áo lót bằng cám bao quanh. Nhiều hột còn mắc cỡ, nhứt định không chịu cởi. Tất cả bọn chúng được cho vào cối, giã cho đến khi chỉ còn lại một thân hình trần trụi. Đến thời của má, quê tôi đã có nhà máy xay lúa. Lâu lâu má và tôi lại khiêng một bao lúa xuống bến sông. Tôi ngồi trên bao lúa, chờ chiếc tàu của nhà máy Nhan Đồng hú còi, ngoắc cho nó ghé vào rồi đi theo để lấy gạo đem về. Gạo được xây miễn phí nếu chúng tôi để cám lại cho nhà máy. Nhà nào có nuôi heo, đem cám về thì phải trả tiền. Cái cối tưởng đâu bị nhà máy cho ra rìa được ngồi chơi xơi nước, ngờ đâu lại bận bịu hơn. Má tôi bắt đầu làm nghề nhuộm hàng nên nó lại được dùng để quết mặc nưa. Thức ăn của nó bấy giờ là những trái mặc nưa có màu xanh ngắt như cẩm thạch, tròn và chỉ to như viên bi. Chất nhựa màu vàng của nó, vừa ra gió là đổi thành đen thùi lùi liền. Mủ mặc nưa hòa với nước thành một loại thuốc nhuộm độc đáo, giúp quê tôi làm nên lãnh MỸ A TÂN CHÂU nức tiếng. Cái cối lúc bấy giờ thay vì ăn gạo đỏ, gạo trắng, lại ăn ròng trái mặc nưa, đắng nghét, đen thùi. Mùa lãnh Mỹ A rồi cũng qua đi. Cối lại trở về với món ăn thường trực của mình, đó là cây chuối. Ở xóm tôi, hầu như nhà nào cũng có nuôi một, hoặc hai con heo. Bà ngoại tôi đã góp công rất lớn trong việc xây nhà, tạo ruộng nhờ cái tài nuôi heo nái của mình. Thức ăn chủ yếu của mấy con ủn ỉn, phân nửa là cám và cháo gạo lức, phân nửa là cây chuối. Điều nầy cũng góp phần giải thích, tại làm sao cây chuối chiếm chỗ nhiều nhất trong những ngôi vườn của xóm tôi. Chuối sau khi đã trổ buồng thì tuổi thọ cũng hết. Khi buồng chuối không còn đậu trái nữa, người ta cắt cái mà người bắc gọi là “hoa chuối”, còn người nam gọi là “bắp chuối” đi.( Cái bắp chuối ấy được trộn gỏi, nấu canh chua hoặc ăn sống. Ngoài ngon miệng nó còn giúp làm tan sỏi thận, nhứt là ở loại chuối hột). Khi những trái chuối sắp chín, buồng chuối được tách ra khỏi thân cây. Những cây chuối chỉ cho trái một lần trong đời, nên sau khi buồng chuối được lấy xuống rồi nó liền bị đốn bỏ (phủ phàng quá !). Để nó khỏi tủi thân bà con vác về, tháo bỏ mấy lớp bẹ gìa héo bên ngoài, xắt lát thật mỏng rồi đem bỏ vô cối quết thật nhuyễn ủ cho heo ăn. Muốn xắt chuối bà con cần có hai dụng cụ : Dao dâu và cây liếc. Dao dâu lớn gấp ba, bốn, năm lần cây dao yếm làm cá. Bề rộng khoảng một tấc còn bề dài gấp năm, sáu lần bề rộng. Cái cán của nó rất dài để có thể tựa lên đùi của người sử dụng. Cây liếc dài chừng năm tấc, mặt cắt hình chữ nhật, chỉ đủ cầm vừa gọn trong tay, làm bằng loại gỗ xốp (tôi đoán là từ cây gòn, không biết có đúng không). Cây liếc nầy có công dụng lấy đi nhựa và tơ chuối bám trên lưỡi dao để giúp dao bén trở lại. Những lát chuối mỏng như ren với cái lõi ở giữa, tròn xoe như miếng bánh phồng tôm chưa chiên. Tụi con nít chúng tôi ngày đó, hay gom những cái lỏi ấy lại, giả làm tiền xu để mua mấy cái bánh làm bằng đất. Chuối sau khi xắt xong được cho vào cối, quết thật nhuyễn rồi đem ngâm. Sau lưng mỗi căn nhà đều có cái giạt tre kê trên bốn cây cột cao cở bảy, tám tấc để làm chỗ rửa chén, gọi là sàn nước. Cạnh cái sàn nước có hai, ba, bốn cái lu và một nhánh tre cắm bên cạnh. Ở mút đầu nhánh tre có máng cái gáo dừa với cán rất dài để có thể múc mà không cần khom người, khi nước cạn gần sát đáy lu. Cái lu lớn nhất đựng nước để nấu ăn, rửa chén. Cái lu nhỏ hơn dùng để ủ chuối (chuối giã nhuyễn xong cho vào đó, nước vo gạo sẽ được chắt vào khiến nó lên men, giúp mấy con heo tiêu hóa tốt). Cái lu nhỏ hơn nữa đựng xác mắm ( xương cá còn lại sau khi đem mắm đi nấu. Thịt đã rã thành nước mắm ), đây là món ăn mà mấy con ột khoái nhất. Những người tiết kiệm như ngoại, còn để dành lớp bột cá, cùng nước giặt đầu tiên của cái bao bồng bột lượt mắm lại cho heo ăn, trong một cái lu nhỏ hơn nữa. Nghề chăn nuôi gia súc bây giờ phần lớn đã đi vào công nghệ. Bà con trong xóm không nuôi heo nữa. Bên lề đường, cái chõng tre ngày nào đã bị dẹp, mấy gốc gòn cũng bị san bằng. Không còn những đứa bé gái vừa ngồi thắt dây thun trên đó vừa lắng tai nghe ngóng. Hễ tiếng kèn bóp tay, tiếng rao của người thiến heo, bán heo con hay lái heo vang đến, là nhảy phóc xuống, chạy ra chặn chiếc xe đạp của ông ta lại liền. Rồi đâm đầu chạy u ra hè gọi má inh ỏi như tôi ngày xưa nữa . Cuộc gặp gỡ đột ngột sau mấy mươi năm bặt vô âm tính làm tôi không khỏi bùi ngùi. Cái cối già nua đã làm xong phận sự. Nó không còn ở chỗ cũ nữa mà lùi vào nơi xa xăm nhất của khu vườn. Cái dáng vững chải ngày xưa bây giờ đã tiều tụy lắm ! Trên mặt cối đã có những vết rạn do những nhịp chày bỏ lại. Trong cái bụng tròn vo của nó, nước đã lên rêu và mấy chục con lăng quăng đang bơi thi trong đó. Xác lá, bụi, đất …đọng một lớp dầy dưới đáy nhưng nước lại trong veo. Tôi đặt thật nhẹ bàn tay vào để không làm cặn vấy lên, nước lạnh ngắt như một linh hồn cô quạnh ! Những hình bóng ngày xưa đã vĩnh viễn từ bỏ nó. Từ lâu rồi, nó không còn được cho ăn dù chỉ một mảnh vụn. Con trăng, khi chịu khó vén những tàu lá chuối, lá tre, ghé thăm, có khiến lòng nó ngậm ngùi khi nhớ đến các bữa tiệc thịnh soạn của những mùa trăng cũ ? Bàn tay rút lên cùng một lúc với hai giọt nước trên má tôi rơi xuống. Cái cối hoàn toàn bị quên lãng ấy giật mình. Những con lăng quăng bỏ chạy loạn xạ, một vài con còn va vào nhau. Giây phút xao động ấy cũng từ từ trôi qua, mặt nước lại bình lặng, bầy lăng quăng trở về công việc bình thường. Cái cối lại chìm trong giấc cô miên.
|