CHÙA THỊ KÍNH Vượt qua vàm sông rộng, Ân cho chiếc xuồng ba lá của mình cặp sát mạn phải. Một ngôi nhà lá nhỏ, đứng một mình ở cái voi nhô ra trên đầu cù lao, xuất hiện một cách bất ngờ ngay trước mặt. Con đường đất rộng độ một bước chân, dài chừng ba mươi bước, từ bờ sông dẫn vào nhà chia mảnh đất phía trước thành hai phần bằng nhau : Bên trái là những giồng khoai lang lá xanh thẫm pha sắc tím, bên phải là những luống đậu phọng có lá mang màu cẩm thạch. Mùa nầy đậu phọng đang trổ bông. Một màu vàng rất nhẹ, rất dịu của những nụ hoa như núc áo ấy khiến mắt Chi vừa chạm đến là nghe cả người mát rượi như ngậm một muỗng kem. Có phải vì vậy mà người ta gọi nó là “màu kem” ? Chi chợt mĩm cười trước câu hỏi thầm đó. Những đóa hoa mỏng manh ấy, chen chúc nhau núp dưới lá, chỉ có những cô nàng tò mò, bạo dạn lắm mơí dám ló mặt ra nhìn lại Chi thôi ! Sát bờ sông, cái giàn cao mút đầu với bốn cẳng không đồng đều. Một cái to cỡ nửa vòng ôm vốn là thân của một cây gáo đang xanh tốt. Ba cái cẳng còn lại bằng tre, ốm nhom thẳng đơ. Lá, bông và trái chi chít trên giàn. Những trái mướp mặc áo sọc xanh đậm, những trái bầu mặc áo bông trắng đứng im ru vì trời đứng gió. Màu trắng tinh của bông bầu và màu vàng sọng của bông mướp làm nền cho nhau, khiến nhan sắc cả hai cùng được tôn lên rất nhiều, làm mấy chú bướm, chú ong phân vân chẳng biết chọn ai. Chi, cô dâu mới, lần đầu tiên về thăm quê chồng, chợt nghe lòng dạt dào thương mến. Chẳng cưỡng lại được sự thu hút của cảnh vườn tược sông nước yên bình, tĩnh lặng nầy, nên kêu giựt ngược: -Ghé vô, ghé vô đây một chút đi anh, căn nhà thấy thương quá ! Ân phì cười bởi tiếng “thấy thương” vợ vừa thốt. Đối với Ân, cái căn nhà nhỏ xíu mà mái đã đen thui một màu lá mục nầy, phải dùng chữ ”nghèo” mới đúng. Chàng hỏi: -Nó cũng giống y như mấy căn nhà khác, “thấy thương “ ở cái chỗ nào ? Chi trả lời: -Nó nằm một mình trên cái voi đất, trông như đứa bé bị bỏ rơi, thấy thương lắm, ghé thăm nó một chút đi anh ! Ân nhìn quanh rồi gật gù ra vẻ đồng ý với sự so sánh của Chi. Chàng phóng mắt nhìn xa hơn luống rẫy trước mặt : Một hàng chuối đứng sau ngôi nhà cố vươn dài cánh tay như để gãi lưng cho nó; Mấy cây dừa ở xa hơn, có lẽ người ta sợ trái rụng làm thủng mái nhà; Một vườn rau khá lớn chiếm hết khoảng đất giữa hàng chuối và hàng dừa. Căn nhà được bao quanh bởi những cây chuối, cây dừa, vườn rau ấy, trông như một đứa bé giữa các cha mẹ nuôi. Hoặc ngược lại, nó chính là cha mẹ chở che cho một bầy con khác giòng, khác họ. Chúng đã gắn bó với nhau biết bao đời. Người chồng trẻ bỗng dấy lên một niềm ước ao về một tổ ấm đơn sơ giữa cỏ cây hiền hậu. Ân sinh trưởng ở nông thôn mà còn thấy lòng nao nao thì nói gì một cô gái thành thị như Chi, vốn đói khát thiên nhiên. Chi bị cái đẹp bình dị hớp hồn rồi, nên muốn đặt chân vào căn nhà ấy cho bằng được dù chỉ trong giây lát. Cô nài nỉ : -Ghé vào cho em xem một chút đi mà ! Lòng đã xiêu nhưng Ân vẫn cự: -Có gì đâu mà xem, trời sắp tối rồi, nước ngược bơi xuồng lâu lắm. Chi năn nỉ: -Một chút xíu thôi ! Em muốn… Ân cho xuồng ghé vào cây cầu ván nhỏ. Chàng cẩn thận không để nó chạm mạnh mũi vào cọc cầu. Chi lột dép cầm tay, thận trọng đặt chân lên cây cầu trơn và ướt ấy. Nước còn đọng ở những chỗ trũng do dấu chân để lại khắp con đường. Chủ nhà chắc vừa gánh nước tưới rẫy xong. Một đứa bé trai chừng tám chín tuổi, có cái đầu chừa ba vá, chạy ra đón hai người. Nó chấp tay lại rồi nói: -Mô phật ! À thì ra đây là một cái chùa, cả hai ngạc nhiên hết sức ! Chi càng thích thú hơn, bởi cái việc khi không mà đi xâm xâm vô nhà người lạ thì cũng kỳ, còn đối với chùa thì bất cứ lúc nào khách thập phương cũng được nhiệt tình chào đón. Một vị sư trên tay còn cầm cái xuổng bám đầy đất đứng trước hiên. Ông nói: -Hai cháu vô thấp nhang đi, bác còn lỡ tay. Cả hai ngạc nhiên vì cái cách xưng hô ấy, tự hỏi không biết đây là chùa hay là nhà ở? Căn nhà gồm có hai gian. Gian trước được dùng làm chánh điện. Bàn thờ đóng bằng gỗ thao lao rất đơn giản, không phủ khăn, mặt nhẳn thính như gương không dính đến một hột bụi. Hai cây đèn cầy to bằng ngón chưn cái, còn hơn phân nửa, tắt ngấm được đặt ở hai đầu. Bộ tự sự bằng gỗ đen chắc được chùi thường xuyên nên lên nước bóng lưỡng. Bình bông bằng đất nung cắm ba cây bông huệ chỉ mới nở vài nụ dưới chót. Cái dĩa sành khá to đựng gọn lỏn một nải chuối lá xiêm lớn tột bực, vỏ còn xanh. Bức ảnh đen trắng của Đức phật Thích Ca được treo ngay chính giữa. Trong bối cảnh quá giản dị nầy, ngài bỗng rất gần gũi, giống như vị chủ nhà hết sức đôn hậu, hiếu khách. Chi nghĩ thầm: -Chùa tuy nghèo nhưng được chăm sóc cẩn thận. Ít đồ đạc nhưng cái nào cũng sạch. Bông trái đơn sơ nhưng rất tươi, rất đẹp. Đứa bé ban nãy cầm hai cây nhang châm vào ngọn đèn trứng vịt chong trên bàn thờ. Nó không lấy ống khói ra nên khói nhang bay lòng vòng trong ấy một lúc rồi mới chui ra được. Đưa cho mỗi người một cây xong, nó lật đật lấy chiếc chiếu bông còn mới trải xuống nền đất để cả hai quỳ lạy. Không có thùng phước sương như mấy chùa khác nên họ đặt tiền lên cái dĩa đựng nãi chuối. Ở gian sau họ thấy một cái phòng nhỏ xíu có một tấm giạt tre, chiếu được cuốn lại tròn vo chắc mền mùng nằm trong đó. Sau chót là căn bếp với ba cái nồi kích cỡ khác nhau cùng một cái chảo đã gãy mất một quai. Họ đi tuốt ra sau hè. Ân phát hiện cái mãng xanh rất rộng mà khi nãy chàng ngỡ là vườn rau ấy, là những vị thuốc nam như thuốc cứu, lá lốt, nhãn lòng, tần dầy lá, xã, gừng, cùng rất nhiều cây lạ khác. Giữa đám ngò gai, húng quế, húng cây, húng nhủi… chiếm diện tích rất khiêm nhường, một cây ớt trái sai quằn, đỏ rực nhô cao như muốn khẳng định vị trí chủ soái của mình. Vị sư ban nãy đã rửa tay và đang ngồi đợi ở cái bàn tròn ngoài hiên, ông hỏi ngay khi thấy họ: -Hai cháu hình như mới đến đây lần đầu hả ? Cả hai đáp cùng một lúc : -Dạ. Chi hỏi tiếp liền : -Thưa thầy, chùa mình tên gì ? Ông khoác tay: -Chùa cái nổi gì ! Chỗ nầy là cái cốc riêng của bác thôi, đâu có tên tuổi. Đứa bé bưng ra một dĩa khoai lang đã nguội, củ trắng có, củ tím có. Ông mời: -Hai cháu dùng lấy thảo. Chi và Ân mỗi người cầm lên một củ, họ định lột vỏ thì ông cản: -Khỏi lột, bác rữa sạch dữ lắm để ăn luôn cái vỏ cho bổ. Khoai khá ngọt, họ vừa ăn vừa nói chuyện, hỏi thăm ông như thể đến nhà người bà con đã quen biết từ lâu lắm vậy ! Chi khen: -Thầy lập cốc ở đây hợp quá ! Yên tĩnh, mát mẻ…Ở vùng nầy phật tử đông hông thầy ? Thằng bé bưng khay trà ra đặt lên bàn. Ông vừa rót ra ly cho họ, vừa trả lời: -Hai cháu uống hớp trà cho trơn cái cổ. Ở đây bà con đều theo đạo phật không hà ! Ân hỏi: -Họ có tới đây thường hông thầy ? Ông đáp rất khiêm tốn : -Có, nhưng để nhờ bác trị bệnh thôi. Chỉ rằm lớn mới đông, tại mấy ngôi chùa khác đều ở xa lắm ! Chi chưa uống xong ly trà là hỏi liền: -Trà ngon ghê, ướp bằng gì mà thơm quá vậy thầy ? Ông chỉ tay vào bụi lá dứa mọc chen với khóm bông huệ trắng, trồng gần lu nước trước hiên, nói : -Bác xắt lá dứa, phơi cho khô rồi nấu chung với mấy lá trà tiên, toàn là cây nhà lá vườn. Cháu có thích thì hái một mớ đem về dùng. Chi nghe cảm thương quá ! Xem ra chùa nghèo nên ông hết sức hạn chế tiêu xài, tự trồng lấy tất cả những thứ cần thiết. Miếng đất bên hông và sau lưng chùa cũng trồng toàn khoai và đậu phọng, Chi hỏi: -Sao chỉ trồng có hai thứ nầy, mà không xen loại khác hả thầy? Ông đáp: -Tụi nó dễ trồng, không cần tưới nước nhiều cũng khỏi xịt thuốc trừ sâu. Ân ngước mắt tìm những lỗ thủng trên mái rồi hỏi: -Nhà có bị dột hông thầy, con thấy màu lá chắc đã trên ba năm . Ông gật đầu: -Cũng dột bộn chỗ, chắc phải lợp lại trước mùa mưa. Họ chào từ giã ông khi bị bầy nhóc nhen thúc giục inh ỏi. Chú bé xách bịt khoai đi sau lưng, Chi ngạc nhiên khi thấy chú đặt nó vào xuồng, bởi khi nãy nàng đâu nghe ông thầy ra lịnh. Ân giải thích: -Chắc khi khách đến thăm, thầy hay tặng cây nhà lá vườn ăn lấy thảo. Điều nầy đã thành lệ rồi nên đâu đợi biểu. Tới nhà người bà con thì trời đã tối. Chú Năm đang nằm lơ mơ. Cuộc viếng thăm bất ngờ của họ làm chú tỉnh ngủ. Chú lật đật đi nhúm lửa liền để nấu cơm. Bắt nồi cơm lên bếp xong, chú ra nhà sau lấy trong cái lu to ra một gáo mắm. Chờ cơm sôi vài dạo, chú chắt nước cơm ra cái tô lớn rồi đặt cái chén có con mắm cá lóc nêm sẵn tiêu, đường vào nồi cơm chưng luôn một lượt. Thấy chú cập rập, Chi nói như xin lỗi: -Tại con cứ bắt ảnh ghé vô coi cái nhà ở đầu cù lao, nên mới về trễ. Chú Năm hỏi: -Nó có cái gì ngộ hông? Ân đáp: -Cái nhà đó không ra nhà mà cũng không ra chùa. Chỉ có hai thầy trò … Chú Năm hớt lời: -Thì ra là chùa Thị Kính ! Chi ngạc nhiên: -Sao ông thầy nói nó không có tên? Chú Năm cười hóm hỉnh: -Người ta kêu lén sau lưng, làm sao mà ổng biết được ! Chi tò mò; -Tại sao phải kêu lén, mà tại sao nó có cái tên đó vậy chú ? Chú Năm cắt nghĩa: -Thì cũng hao hao giống chuyện thị Mầu, thị Kính vậy mà! Đâu chừng bảy, tám năm trước, chú tiểu đó bị bà má ẳm tới bỏ đại trong chùa. Bà con nghe tiếng con nít khóc mới ghé vô coi. Họ thấy thằng nhỏ hao hao ông thầy. Nhứt là cái lỗ tai có một cục thịt dư giống y như ổng. Người ta đồn rần rần. Ổng rầu sẩu mình nhưng không nở đem bỏ đứa nhỏ. Chừng sau nầy ba má nó tới xin lại, ổng mới được giải oan. Tội nghiệp! Ổng trị bịnh, hốt thuốc nam làm phước đâu có nhận tiền của ai. Xóm nầy nghèo lắm, bà con không có dư để cúng dường hậu hỉ. Thằng nhỏ bây giờ đang sức lớn, ổng lại không làm ra hột gạo, sắp tới lo ăn cho nó chắc ổng mệt hết hơi ! Ân hỏi: -Sao nó không về nhà cha mẹ mà vẫn còn ở với ổng vậy chú ? Chú Năm chép miệng: -Nó mến tay, mến chưn của ổng rồi. Chắc cũng có căn tu, nên hễ ở chùa là mạnh sân sẩn, mà về nhà là bịnh liệt giường, liệt chiếu. Bởi vậy họ cho nó ở với ổng luôn. Chi hỏi tiếp: -Chùa nghèo quá, chắc cha mẹ nó phải phụ vô thêm chớ làm sao ổng nuôi nổi nó há chú ? Mùi cơm chín lẫn mùi mắm tỏa ra thơm phức. Chú Năm vừa nhắc nồi cơm xuống vừa trả lời: -Nghe nói họ nghèo lắm! Làm không đủ ăn nên hồi đó mới đem con đi bỏ. Chú mở nấp nồi cơm, dùng hai ngón cái và trỏ nhấc cái chén mắm ra, đặt lẹ vô mâm rồi chụp liền lên trái tai cho khỏi phỏng. Chú nói: -Ăn đỡ nghe, sáng mai chú đi đặt lộp kiếm mấy con tôm càng về đãi tụi con. Mùi mắm thơm nghi nghút làm Ân càng đói bụng, vừa hấp tấp cầm đôi đũa bếp xới cơm vừa nhắc vợ : -Nhớ cái nồi mắm má kho mà em khen nức nở hông ? Thím Năm làm đó ! Chi chợt nhớ ra liền hỏi: -Thím với mấy em đâu rồi chú ? Chú Năm cười : -Bữa nay có ghe bán thuốc Sơn Đông về biểu diễn ở xóm dưới. Mẹ con bà cháu nó kéo nhau đi xem hết rồi ! Bới đến lần thứ ba, Ân mới để ý đến chén cơm còn gần phân nửa của Chi, chàng nhìn vợ rồi hỏi : -Sao em không lo ăn, suy nghĩ gì mà thừ người vậy ? Chi bỗng hỏi : -Lá lợp nhà có mắc hông anh ? Ân ngạc nhiên: -Chi vậy ? Chi đáp bằng vẻ ngài ngại : -Để coi mình có đủ tiền mua lá lợp lại cái chùa không ! Ý định đó cũng đã manh nha trong lòng Ân từ lúc nghe chú Năm giải thích về cái tên “Thị Kính”. Chàng hết sức cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của vị thầy ấy, muốn thay mặt mọi người đền đáp lại cho ông, muốn gieo hạt giống tốt lành lên mảnh đất hôn nhân còn mới tinh của họ. Ân nhìn vợ âu yếm : -Chắc hổng thiếu đâu em, chùa cũng nhỏ, chừng vài trăm lá là đủ. Tiền công thì khỏi tốn… Chú Năm tiếp lời; -Cái vụ kêu người lợp để chú lo. Bà con ở đây ham làm công quả lắm ! Tụi cháu muốn góp bao nhiêu thì góp, còn lại chú bao chót. Rồi chú vỗ vai Ân, khen: -Con biết chọn vợ lắm đó!
|