Thấy ông bác đi về hướng bến phà, Tư hỏi: -Sao bác không nhân dịp nầy ghé thăm gia đình một chút ? Ông lắc đầu : -Ghé rồi đi liền coi hổng được. Cũng không có chuẩn bị quà cáp gì hết, hai bàn tay chỉ cầm có hai nải chuối tòn teng, kỳ lắm ! Tư ngạc nhiên hỏi: -Chuối gì ? Cháu đâu có thấy bác mua chuối... Ông cười khà khà, hóm hỉnh, xòe rộng một bàn tay, đưa ra trước mặt Tư rồi đáp : -Thì tại bàn tay của người ta cũng giống cái nải chuối nên nói vậy cho vui. Ý bác muốn nói là mình chỉ có hai bàn tay không đó ! Biết chưa ? Tư nghe ông giải thích, không nín được liền bật cười khoái trá. Nghĩ bụng :"Ông bác nầy đúng là có óc tưởng tượng vô cùng phong phú ". Tư bỗng nhớ ra lâu lắm rồi, từ hồi má mất tới giờ, mình chưa được cười một cách hồn nhiên như vậy. Ước gì chàng được gần gũi bên ông mỗi ngày để lây nhiễm cái tánh trào lộng ấy. Đối với Tư đó là điều quý báu nhứt mà thượng đế trao cho con người. Nó chính là cái bộ giảm xóc, tản nhiệt cực kỳ hữu ích, giúp chiếc xe không bị gãy, không bị cháy khi sụp ổ gà hoặc chạy quá tải. Ông bác Hai nầy quá may mắn được trời ban phát rộng rãi cái món quà vô giá đó. Nhờ vậy mà dù gặp đủ chuyện không may, ông vẫn vượt qua một cách vững vàng, đến bây giờ vẫn còn giữ được nét trẻ trung, láu lỉnh trong ánh mắt. Ông khiến Tư nhớ đến mấy bụi lau bên con rạch ở ngoại ô, nơi có lần Tư theo nhà trường đi cấm trại. Chúng ốm yếu, quặt quẹo, chẳng cây nào đứng thẳng. Chúng làm Tư lo lắng phập phòng, sợ rằng chỉ một cơn gió nhẹ phớt ngang, cũng ngã rạp không ngóc đầu dậy nổi. Thế nhưng chính những ngọn gió ấy lại giúp chúng dẻo dai, vững mạnh, kiên cường hơn. Nhưng điều mà chàng quý nhứt ở ông, đó là lòng nhân hậu, nhạy cảm trước những nỗi khó khăn của người khác và làm giảm nhẹ chúng trong khả năng của mình. Tuy tiếp xúc với ông chưa được một ngày, Tư có cảm giác như mình vừa trải qua một đoạn đường dài lắm ! Ở đầu đoạn đường, chàng là người đang vác trên vai cái túi đựng đầy sỏi đá. Những viên sỏi, hòn đá đó đã được ông dần dà đẩy bật ra, bằng chất hài hước trong giọng nói khi kể cho Tư nghe những cơn bỉ cực của cuộc đời mình. Ở cuối đường, cái túi ấy đã trống, được lộn ngược và giũ sạch để chỉ còn lưu lại những dấu vết mờ nhạt. Những dấu vết ấy có thể không mất đi, nhưng chúng sẽ chẳng còn làm chàng trầy vai, bật máu nữa. Mối tình chàng dành cho Ý đang từ trạng thái vô vọng cũng bắt đầu le lói mầm xanh. Tư bỗng ao ước giá mà mình có một người cha như vậy! Chàng sẽ được gần gũi hằng ngày, để cuộc sống đầy màu sắc và tâm hồn thêm phong phú. Tới bến phà mưa đã tạnh nhưng trời lại tối hẳn. Chiếc phà không còn chòng chành, quăng quật nữa. Những con sóng đã qua cơn hờn giận nên nằm im thiêm thiếp. Phà cập bến, ông Hai chở Tư chạy thẳng lên bờ. Ghé vào chỗ bán vé, Tư chưa kịp nhắc đã thấy ông móc tờ giấy mười đồng ra đưa rồi nói : -Hồi nãy gấp quá nên qua chưa trả tiền bận đi, tính luôn đi chú em. Người bán vé là một thanh niên trạc tuổi Tư, nhìn ông một cách ngạc nhiên. Y xé mấy tờ giấy nhỏ xíu đưa cho ông rồi thối lại một mớ tiền lẻ. Chạy đến một cái sạp có mái che, có lẽ được dựng lên để phục vụ cho khách bộ hành hoặc bày bán thứ gì đó. Ông Hai cho xe tấp vào rồi bảo Tư: -Hai bác cháu mình nằm nghĩ lưng một chút rồi đón xe đò về Sài gòn. Tư hỏi : -Còn chiếc xe Hon Đa thì sao hả bác ? Ông đáp: -Người ta kéo nó lên mui rồi cột lại, tới xa cảng mình lấy xuống chạy về nhà, tiện lắm ! Họ nằm chưa nóng lưng đã nghe tiếng xe vọng tới. Ông Hai lồm cồm bò dậy liền, ông hối Tư : -Dậy lẹ lên đi cháu, trễ chuyến nầy là năm giờ sáng mới có xe đi lận ! Tư hỏi: -Sao lạ vậy bác ? Ông hỏi lại: -Giới nghiêm mà, bộ cháu không biết sao ? Tư chợt hiểu ra là vì sao ở chuyến xe trước, đến bến bắc qua Châu Đốc xe phải nằm lại chờ đến mấy tiếng đồng hồ, khiến chàng đã sốt ruột rồi âm thầm oán trách bác tài. Tư thầm khen mình đã nghĩ ra cái sáng kiến nhờ ông bác Hai nầy chở giùm, đồng thời nghe mang ơn ông biết mấy. Nếu không có ông, chàng phải mất thêm ít nhất là một hoặc hai ngày nữa. Anh chàng Tân chắc chắn sẽ phát hiện, Tư sẽ gặp rắc rối vì khó giải thích cho người công an khu vực ấy tin . Xe vừa dừng, anh lơ liếc thấy chiếc xe của họ, liền trèo lên mui thoăn thoắt rồi hối như giặc. Ông bác và Tư đứng dưới đất, lật đật nâng chiếc xe cho anh ta kéo lên. Họ chưa kịp đi tới hàng ghế trống ở cuối xe để ngồi vào, bác tài đã cho xe chạy vù đi liền. Cả hai loạng choạng ngã vào nhau, may mà Tư nắm được cái lưng ghế rồi trụ lại kịp. Vừa ngồi xuống ghế là Tư liền than: -Ngồi chỗ nầy chắc tới khi xuống xe xương sống thành cây đàn ắc cọt. Ông bác rầy: -Mình đi vào giờ nầy nên mới có chỗ ngồi. Nếu chờ tới sáng cho dù sắp hàng chen lấn mua được tấm vé cũng chưa chắc trèo vô xe nổi. Họ xô đẩy nhau, người trên xe chưa xuống người dưới đất đã trèo lên để xí chỗ. Đi xe đò mà cực như đi hành quân vậy. Tuy khởi hành vào giờ trái khoáy, trên xe vẫn đông người, hàng hóa chất đầy, choán cả lối đi. Hành khách hơn phân nửa là dân đi buôn. Họ đi giờ nầy để trốn mấy cái trạm gác, nếu không trốn được thì cũng dễ đút lót hơn. Đêm tối là trợ thủ đắc lực cho những hành động mờ ám. Điều nầy giải thích tại sao trạm gác mọc lềnh khênh nhưng ở Sài Gòn hàng lậu vẫn tràn ngập thị trường. Chúng có mặt không chỉ ở mấy cái chợ nổi tiếng ở trung tâm, mà cả những cái chợ chồm hổm ở hốc bà tó cũng nhan nhản. Tư và ông bác ngồi ở cái băng ghế sau cùng, xung quanh họ toàn là phái đẹp. Giới đi buôn đa số là phụ nữ. Chàng lo sợ phập phồng. May quá ! Không có ai nhờ giấu hàng giùm. Người lơ xe đến thu tiền, Tư hỏi : -Bao nhiêu vậy anh ? Y đáp : -Một chiếc xe, hai người. Năm chục ! Tư ngạc nhiên trước cái giá rẻ bất ngờ đó. Trả tiền xong, chờ anh ta đi khỏi Tư quay sang bác Hai hỏi nhỏ: -Ảnh tính có lộn hông bác? Hôm trước một mình cháu đã gần ba chục rồi . Bác Hai cười giải thích : -Đường nầy gần lại không qua bắc nên rẻ hơn. Ông lấy túi ấu ra đưa Tư rồi nói: -Cháu ăn đi cho đỡ đói. Tư mời lại: -Bác ăn với cháu cho vui. Ông cười hết cỡ, lấy ngón tay trỏ chỉ vào hai cái răng cửa rồi nói: -Răng cỏ đâu mà cắn. Hai cái nầy là răng giả chỉ để làm kiểng thôi ! Cắn tàu hủ, sưng sa, sưng sáo thì được, chớ gặp ba cái thứ cứng cồng như vầy là chịu chết ! Tư chẳng nói, chẳng rằng, cầm lên cắn giập từng trái, đoạn cẩn thận bóc hết vỏ chỉ lấy cái ruột bên trong ra đưa cho ông. Được chừng sáu, bảy trái, ông liền ngăn lại: -Thôi bác không ăn nữa đâu! Tư chia túi ấu ra làm hai, đưa cho ông một phần rồi nói : -Bác đem bọc nầy về cho bác gái, cháu ăn bây nhiêu đây là no tràn họng rồi. Bác Hai vừa cầm vừa nói: -Bả cũng trồng mấy cái răng cửa y như bác. Đem món nầy về chắc bả cười tới mắc nghẹn luôn vì nghĩ bác cố tình chọc ghẹo. Rồi ông nói thêm: -Chắc bác phải lấy cái chày đâm tiêu đập cho bể ra rồi lột giùm. Phải làm như vậy may ra bả mới chịu ăn cho hết, hông thôi dám còn nguyên lắm ! Tư hỏi: -Bác gái có nghĩ là bác chơi xỏ rồi giận hay không ? Ông cười : -Ba cái chuyện đó để giành cho tụi con nít ! Cái bọn già của bác, còn hơi sức đâu mà phung phí vô mấy cái vụ hờn giận tầm ruồng đó . Tư lại hỏi: -Từ hồi cưới tới giờ, hai bác có khi nào đòi chia tay với nhau không? Ông gật đầu, giải thích: -Cưới được hơn một tháng là vợ bác bị bịnh rất nặng. Bác có cầu xin trời phật cho bả qua khỏi, rồi muốn cái gì bác cũng chìu hết, bỏ bác cũng được. Bác nghĩ cái bịnh ấy chắc tại thất tình mà ra. Bác bèn hỏi bả coi nếu đúng như vậy thì khi bả hết bịnh, bác sẽ đưa trả về gia đình, rồi xin với ông nhạc cho bả được lấy người bả thích, để bả vui vẻ mà sống. Nói thiệt khi đó bác buồn hết sức, ráng cầm lòng mà nước mắt cũng chảy ra. Nói tới đây ông bỗng dừng lại. Tư quay sang nhìn thấy trái cổ của ông liên tục chạy lên chạy xuống, như thể đang ráng nuốt thứ gì sắp sửa trào ra. Ông kể tiếp: -Nào ngờ nhờ vậy mà bả cảm động. Lúc ấy da bả xanh rờn, ốm nhom, ốm nhách, đi không muốn nổi, tưởng chừng sắp chui xuống lỗ. Bác bỏ hết công việc để ở gần một bên mà săn sóc. Người ta đồn uống trứng gà so là bổ hạng nhứt. Cái trứng nầy phải dùng khi nó vừa chui ra khỏi cái bụng con gà, còn nóng hổi mới tốt. Bác để tai nghe ngóng. Hể nghe mấy con gà mái tơ cục tác là rình để lấy liền cái trứng còn nóng đó. Bác ủ trong túi rồi lấy cái lông nhím chọc thủng hai đầu bắt bả hút cho hết. Ở quê, bà con nuôi gà để ăn thịt chớ không ai nở ăn trứng. Chừng nào nó ấp xong rồi bỏ lại mấy cái trứng ung, trứng vữa không nở thành con được mới đem luộc chấm muối mà ăn. Má bác khó tánh và tiết kiệm lắm ! Ngày nào bà cũng kiểm coi có con gà nào đẻ hông. Thấy nguyên bầy gà mái tơ, nghe cục tác rân nhà mà không có cái trứng nào bà sinh nghi. Hết rình mấy con gà rồi rình luôn tới bác. Bữa đó bắt gặp bác lộn cái trứng gà trong lưng quần, bà rầy cho một chập, đòi lại mà bác nhứt quyết không đưa, làm bà tức tới nổi trợn trừng hai con mắt. Mấy ngày sau bà lại bắt gặp nữa. Lần nầy bà giận quá, rút cây chổi lông gà ra quất bác tới tấp. Bị đòn thì bị, bác nhứt định không bỏ cái tội ăn cắp trứng gà, cho tới khi vợ bác ngán tới ói bác mới chịu thôi. Nhờ hút cả chục cái trứng gà so mà vợ bác khỏi bịnh. Nhờ cây chổi lông gà te tua nên bả mới bắt đầu thương bác. Tư nghe ông kể rồi tưởng tượng cái cảnh ông bác lớn chồng ngồng, có vợ rồi mà bị đòn thì mắc cười quá chừng. Không dám bật thành tiếng, ráng nén xuống nên nghe tức bụng. Ông Hai đang nhìn về ký ức nên gương mặt tràn đầy cảm xúc, ông nói tiếp : -Cái lần đó bác tưởng đâu hai đứa rả rồi, nào ngờ khi hết bịnh bả không về nhà mà lại đổi tánh không còn lạnh nhạt với bác nữa. Vậy mà bác cũng chưa dám leo lên giường ngủ chung. Một hôm bác đang nằm dưới đất như mọi lần thì bả xuống nằm kế rồi ôm bác. Trời ơi ! Bác mừng muốn đứng tim luôn. Hai đứa ôm nhau mà rung bần bật. Bác biết liền là từ đây về sau, hai vợ chồng bác sẽ thương nhau cho tới chết. Cơn cười bỗng dứt hẳn, thay vào đó là một nỗi xúc động làm Tư nghẹn ngào. Nếu bây giờ đức mẹ có giáng lâm, rồi nói sẽ ban cho chàng chỉ một điều duy nhứt. Tư sẽ chẳng ngần ngại, xin đức mẹ ban phép cho mình và Ý thương yêu, gắn kết bền chặt, mãi mãi bên nhau như hai vợ chồng ông bác Hai nầy, chớ chẳng cầu mong bất cứ thứ gì khác. Ông Hai thấy Tư ngồi im như tượng, bèn thoi nhẹ một cái rồi nói: -Bộ buồn ngủ rồi sao ? Tư lắc đầu, nói: -Cháu thức khuya lắm ! Giờ nầy dễ gì ngủ nổi. Ông bèn nhắc : -Vậy thì ăn đi, để bụng đói còn khó ngủ hơn nữa. Tư cầm trái ấu lên, bắt đầu cắn rồi nhai từ từ. Chàng ngạc nhiên hết sức ! Ban nãy khi bà chủ quán đưa mời, bụng còn no nên Tư nghe nó dở òm, ăn ngán ngược. Bây giờ lại thấy ngon một cách lạ thường. Chàng cứ cắn nhai, cắn nhai liên tục cho đến trái cuối cùng. Tư lấy chai nước của bác gái trao cho họ ban nãy ra, mở nắp rồi đưa lên miệng uống. Hình như cái vị của nó ngọt hơn chai nước của mình, cho dù cả hai đều xuất thân từ thủy cục.
|