Giữa tháng tư âm lịch, ông trời bắt đầu súc lu từ từ rồi trút nước ào ào xuống đất. Đội quân lũ lụt cũng mở cuộc xâm lăng từ biên giới phía tây kéo róc xuống. Xóm Cầu Ván thuộc khu vực đầu nguồn nên bị ảnh hưởng nặng nề gắp đôi, gắp ba các vùng khác ! Mấy luống nấm rơm chưa kịp lớn, chỉ mới bằng hột tiêu đã bị ngập úng, chết rụi. Nhà dì Sáu Dọ phải đối mặt với nguy cơ trắng tay. Không riêng gì gia đình dì Sáu, cả xóm đều điêu đứng, không hao thứ nầy thì hụt thứ kia, nên một nỗi lo, buồn bàng bạc khắp nơi. Không buồn sao được ? Bởi bà mẹ đất ngày ngày đều vắt sữa ra mà nuôi họ, nay nhìn cảnh bà bị đè đầu nhận nước đến ngộp thở ai mà chẳng đau lòng! Sinh hoạt của bà con bị xáo trộn. Họ không phải ra đồng nên cả ngày rảnh rang. Sáng sáng ăn ba hột cơm dằn bụng rồi lên võng nằm đưa tòn teng cho tới bữa cơm trưa. Trên trời thì mây, dưới đất thì nước, cảnh mây nước trùng trùng gợi cho họ một cảm xúc dạt dào nên số thi sĩ nghiệp dư bỗng tăng vùn vụt. Đó là nói về phái mạnh còn phái yếu thì xem ra còn bận rộn hơn nhiều, vì tận dụng thời gian nầy để làm bánh, làm khô, làm...đủ thứ ! Trong đám gia súc chỉ có bầy vịt là phởn phơ, thỏa chí tang bồng vì bờ cõi được mở rộng mênh mông. Mấy con gà thì ôi thôi, thật là tội nghiệp ! Bầy gà đặt tổng hành dinh dưới sàn nên thân phận vô cùng thê thảm. Chúng bị quân của bà thủy đuổi, bay tuốt lên cây ổi, cây xoài sát bên nhà để tạm trú. Hai cái cẳng khẳng khiu cả ngày bám cứng mấy nhánh cây gầy guộc. Giấc ngủ của chúng cứ chập chờn, không yên, bởi bị gió mưa đánh thức bất kể lúc nào ! Có lắm con đang ngủ bỗng gặp ác mộng nên giật mình chới với, lấy chân ôm ngực, thế là... Thím Chín cũng vậy ! Trong lúc ngủ, bất kể giấc trưa hay tối, thím đều phải mở tan hoang cái lỗ tai mà canh chừng. Hễ nghe gà kêu cái "quác", rồi tiếp đó là tiếng đập cánh, quẫy nước thì ngồi phắt dậy liền để vớt nó. Thường thì những cuộc cứu hộ ấy chỉ thành công vào lúc ban ngày, còn ban đêm đều quá muộn ! Thím Chín cắt cổ lập tức cái con gà bị ngộp đó ! Nhổ lông rồi bỏ hết bộ lòng chỉ lấy lại cái mề. Thím ngâm nó vào thau nước muối cho trắng rồi lóc thịt để riêng. Phần xương còn lại bị thím dùng cái chày vồ dần cho nát bét ra ( chỉ bỏ hai cái chân và hai ống xương đùi thôi), kế tiếp bầm cho thiệt nhuyễn. Thịt được xắt mỏng, cũng bầm nhuyễn trộn vào. Chúng được đem xào với bụi hành lá vừa bứng trên giàn rau cho chín, rồi để nguyên trong chảo đậy nắp lại. Thím lấy cái thớt me dày, dần lên cho thật khít rồi đem treo trên gióng, để đề phòng mấy con chuột đu dây qua cạy nắp. Vào mùa nước, bọn chuột thản nhiên chui vào nhà ở chung với người. Tụi nó tự cho mình cái quyền kiểm tra, hy sinh ăn trước xem thực phẩm có an toàn không rồi mới đến lượt chủ nhà. Thím Chín lại chui vào mùng ngủ tiếp, lần nầy mở hết cả hai tai, vừa canh cứu gà, vừa canh đập chuột, sợ nó xơi tái cái chảo nhưn của mình. Nửa đêm nghe tiếng dao, tiếng thớt bên nhà thím Chín là mẹ con dì Sáu lại tủm tỉm cười vì biết ngày hôm sau nhà mình sẽ có bánh xèo ăn. Cây cối cũng chẳng yên thân ! Vườn đu đủ vừa bán được lứa trái đầu của thím Chín cứ ngã dần từng cây. Mỗi đêm nghe tiếng rơi lỏm bỏm của mấy trái dừa, thím lại chép miệng thở dài. Mùa nầy lũ chuột bị mất hết trọi mấy cái hang dưới đất. Chúng leo thật cao, lên tận đọt dừa ở cho chắc ăn. Những đêm khó ngủ, chúng lại khoét dừa ăn chơi cho đỡ buồn. Sáng hôm sau, những trái dừa ấy được vớt lên, nạo rồi thắng lấy dầu để bán rẻ cho bà con xài thay mỡ. Gạo, vốn thừa mứa ngày thường, giờ trở nên hiếm. Điên điển và tép đầy đồng nên bà con thi nhau xây bột làm bánh xèo, vừa đỡ tốn gạo lại vừa khoái miệng. Ngon và đẹp làm sao những cái bánh xèo mùa nước ! Mấy con tép rong tươi roi rói, cong người để bảo vệ cái bụng đầy nhóc chứa triệu triệu chiếc trứng bé li ti xanh như ngọc bích. Chúng nhảy tưng tưng cố thoát thân nhưng chẳng thể trốn khỏi những bàn tay rắn rỏi của các bà má, bà chị. Họ chỉ dùng hai ngón tay: Cái và trỏ, để bóp dẹp lép cái đầu, loại bỏ cái mũi nhọn hoắc, cứng ngắc cùng toàn bộ râu, chân của nó. Động tác nầy diễn tả nghe dài dòng nhưng thực hiện chỉ trong chớp mắt. Bằng vào thời gian bạn đọc câu viết trên, mấy chục con tép đã làm xong! Những con tép vừa xúc lên và bị lặt từng con ấy, được đem xào với hành lá, tiêu, đường, nước mắm... và cũng được dùng làm nhưn bánh. Vua của mùa nước là bông điên điển, nó kết hợp với tôm, tép, thịt gà, thịt ếch...để tạo thành một vị vua của tất cả các loại bánh: Đó là bánh xèo ! Vị vua nầy ngự trị trường tồn, quyền lực ngày càng bền vững, trong tương lai có thể đem binh đi chinh phục xứ người. Mấy người phụ nữ trong xóm ai mà không biết đổ bánh xèo. Mỗi nhà đều sắm một cái chảo gang to, gác trên giàn bếp mà để dành, khi làm món bánh nầy mới lấy xuống. Họ đã quá thuần thục nên những cái bánh do họ làm đều đạt tới đỉnh vinh quang. Nó ngon từ ngoài vào trong. Từ lớp bột vàng tươi thơm mùi nghệ cùng vị nước cốt dừa béo ngậy, với cái vành mỏng te như đăng ten, giòn rụm...cho tới lớp nhưn phủ phê, đậm đà hương vị và dồi dào chất đạm. Những cái bánh ấy được bày trong mâm, lót lá chuối lên từng cái để khi tách ra không bị rách. Chúng được đặt lên giữa chõng hoặc giữa bàn ăn, cạnh tô nước mắm tỏi ớt đỏ au và một rổ rau thơm xanh ngắt. Mấy người đàn ông đã ngồi chờ sẵn, họ xăn tay áo (ai ở trần thì khỏi), múc nước mắm vào chén, xé nửa cái bánh kèm đủ thứ rau, cuộn tròn lại, chấm ngập nước mắm rồi cho vào miệng. Phồng cả hai gò má mà nhai ! Đàn bà, con gái, con nít thì túm tụm trong bếp. Họ thủ tiêu mấy cái bánh không đạt tiêu chuẩn, đứng hoặc ngồi chồm hổm trước ông lò, vừa đổ vừa ăn ! Việc đi lại trong xóm mùa nầy gặp rất nhiều trở ngại. Những nhà không sắm nổi xuồng, phải chặt mấy cây chuối để kết bè chống đi, chống về. Trên trời, dưới nước, cho nên dù cố giữ gìn thế mấy đi nữa, tay chân bà con cũng khó khô ráo lâu. Hậu quả là người nào cũng bị cái bệnh nước ăn. Ai ai cũng mang hai bàn tay, bàn chân với mấy kẻ ngón xanh lè bởi xức phèn xanh. Chỉ có mấy đứa con nít là sướng nhứt ! Chúng tận dụng dịp nầy để tập bơi xuồng. Chúng tắm thả giàn, nhứt là mấy đứa con trai. Hể nghe nực là tụt cái quần xà lõn ra rồi từ ngạch cửa phóng cái ào xuống nước. Chúng bơi từ cây mít qua cây vú sữa, bơi xuyên qua cái sàn giờ đã thấp chủm rồi trèo lên nhà. Tụi con gái thì khoái câu cá hơn. Ngoài cây cần câu, đứa nào cũng sắm cho mình một cây vợt làm từ mấy tay lưới rách. Chúng cầm sẵn nó trên tay rồi đứng rình, hể thấy cái gì ngộ ngộ trôi qua là vớt ! Chúng thường rủ nhau đi hái bông điên điển, rau dừa, bông súng...Bởi mấy thứ rau nầy rất phù hợp với món mắm kho, cho nên cái mùi thơm cào ruột ấy cứ tỏa ra, hôm nay từ chái bếp của nhà đứa nầy, ngày mai lại từ nhà đứa khác. Theo lời yêu cầu của thím, chú Chín bắt cây cầu khỉ từ nhà mình qua nhà Phục, để thím Chín và dì Sáu qua lại dễ dàng. Chú và Phục còn hùn nhau, mua mấy tay lưới đem giăng để kiếm cá bán. Số cá bán không hết được đem về cho dì Sáu và thím Chín làm khô, làm mắm. Dì Sáu không còn bán nấm rơm nữa mà chuyển sang bán cá. Dì phải bơi xuồng lên chợ quận vì bà con trong xóm nhà nào cũng tự kiếm cá cho mình. Nước bao quanh nhà, họ chỉ cần ngồi trên bực cửa quăng câu. Hôm bán cá được nhiều tiền, dì Sáu ghé vào chợ mua cho bé Nhân một cái lúc lắc. Chiều hôm ấy mọi người quay quần xung quanh thằng bé. Họ thích thú khi thấy nó cầm món đồ chơi cho vào miệng, rồi giật mình chới với vì nghe tiếng lục lạc khua vang. Thằng bé mếu máo còn họ thì cười với nhau. Trước đây, tình cảm của chú Chín dành cho Phục nghiêng nặng về hướng trắc ẩn. Nhìn cảnh hai mẹ con họ thui thủi bên nhau chú thấy tội. Bây giờ có dịp gần gũi hơn, chú đâm ra cảm mến chàng trai hiền lành, nhút nhát, ít nói nhưng giàu nghị lực nầy quá! Chú bỗng đâm tiếc hùi hụi vì cho rằng nếu ông trời không hăm hở khuấy tay vào thì biết đâu y đã trở thành con rể của mình. Cả hai, chú Chín và Phục đều có tay "sát cá", nên chẳng có hôm nào dì Sáu được ở nhà trọn ngày và thím Chín không phải tay thớt tay dao, làm cái việc xẻ cá phơi khô. Mùa nước nên việc làm khô khá vất vả. Thiếu sân phơi, trời lại hay mưa bất chợt, mấy con cá không khô kịp, thịt không săn lại nổi mà bủn xì. Chúng bay mùi nồng nặc khiến ruồi kéo đến cả bầy như đi lễ hội. Những chỗ bị ruồi đậu vào đẻ trứng, ít lâu sau sẽ xuất hiện những con dòi lúc nhúc, nhỏ xíu như sợi tóc. Cái tụi nầy lớn nhanh như thổi, vài hôm đã bằng đầu cây tăm xỉa răng. Thím Chín cho mớ khô đó vào cái rỗ thưa to nhứt của mình, lắc mạnh cho đám ấu trùng ấy rơi như mưa xuống nước. Một bầy cá lòng tong kéo nhau đến, cả trăm con tranh nhau táp lia, táp lịa. Chúng đớp hết ráo không chừa đến một con rồi lượn tới, lượn lui chờ mãi. Hồi lâu mới chịu rút lui. Bị nước lũ vây hãm bốn bề nên hai gia đình thím Chín và dì Sáu gắn dính vào nhau. Dì Sáu đi chợ cho cả hai nhà nên các món ăn của họ luôn trùng khớp. Thím Chín thường nấu cơm hơi nhiều một chút để gọi Phục qua ăn chung, phòng khi dì Sáu đi bán về trễ. Lúc đầu Nhu còn tránh né, không chịu ngồi chung mâm rồi từ từ mới gia nhập. Họ đã dám nhìn thẳng vào mắt nhau, bắt đầu nói với nhau những câu, ban đầu còn rời rạc rồi dần dà mạch lạc, trơn tru hơn. Người khoái Phục nhất không phải chú thím Chín, không phải Nhu mà lại chính là Nghệ ! Nghệ thường đi theo Phục để thả và thăm lưới. Chàng thuộc dạng công tử bột, được ông bà ngoại cưng như trứng mỏng. Ngoài giỏi cầm cây viết ra thì chẳng giỏi thêm môn gì nữa! Phục thì ngược lại...Chỗ ưu của người nầy lại là khuyết của người kia, nên họ ráp lại dính khắn! Nghệ khoái ăn bánh xèo hơn ai hết nên lâu lâu lại rủ Phục đi thăm lưới, thăm câu thật sớm để hái bông điên điển trước rồi mới kéo lưới, kéo câu lên. Những hôm cá dính nhiều, mấy tay lưới nổi phình vì gở không kịp nên cá chết. Nghệ thao tác vụng về, chẳng nhanh bằng chú Chín nên họ phải cuộn lại đem về để cả nhà ráp nhau cùng gở cá. Có khi Nhu vừa nách con vừa xông vào tiếp một tay. Thím Chín viện cớ nước ngập khó đi lại nên rước con gái và cháu ngoại về nhà. Nghệ vài ngày ghé thăm một lần để được tiếp tế thực phẩm. Đây là thời điểm mà chàng ưa thích nhất! Hôm nào siêng thì theo Phục bơi xuồng ra đồng, ngắm mấy cái bông súng đứng im ru, mặc tình mấy bụi lục bình thỉnh thoảng ghé qua rủ rê, chèo kéo. Làm biếng thì ở lì trong nhà một mình, quay lại thời kỳ độc thân, tha hồ mà thơ với thẩn.
|