Ông Tiến đi khá lâu rồi mà Thư vẫn còn nằm miết trên giường. Từ lúc biết người vừa đóng vai chú rể để cứu cô ra khỏi cái cảnh bị gia đình, xã hội khinh khi, ruồng bỏ, cũng chính là người đã cứu mình thoát khỏi cảnh tù tội của mấy năm trước, Thư lo bấn lên liền. Cô chẳng còn bụng dạ nào mà nghĩ đến bất cứ chuyện chi, bất cứ người nào, cho dù hệ trọng đến tính mạng, nói gì tới mấy cái chuyện ăn với uống. Bây giờ cô đã hiểu ra cái nhìn trân trối của ông Hùng khi gặp mình hôm trước. Đó là cái nhìn sửng sốt vì bất ngờ chớ nào phải bị tiếng sét ái tình như cô đã nghĩ. Nỗi xấu hổ bỗng dâng trào rồi nhận Thư chìm lĩm. Thư kéo mền trùm kín đầu, cảm giác như có ai đang đứng trước mặt và nhìn mình một cách hết sức nghiêm khắc. Cái kỹ niệm mà cô giấu tận đáy lòng, chẳng bao giờ chủ động lấy ra xem ấy, như khúc phim đang chiếu thật chậm. Từng chi tiết bỗng hiện ra mồn một : Cô nhớ đến đôi mắt thật hiền nhìn cô đầy thương cảm trên gương mặt thanh thoát như tiên của người đàn ông ấy. Nhớ cảm giác sượng sùng của mình khi xỏ tay vào chiếc áo đi mưa cũ mèm. Nhớ hai bắp cơ to như hai con chuột trên cánh tay khi ông ta gồng mình dốc hết khả năng mà bơi. Nhớ cái động tác cúi rạp người và vung cây dầm lia lịa. Nhớ tiếng đạn xé gió cùng tiếng cây dầm xé nước rào rào. Nhớ cả những giọt nước bị bắn tung lên trời, lóng lánh như kim cương dưới ánh trăng... Thư nghĩ thầm: -"Chắc ông ta thất vọng về mình lắm !" Bỗng dưng cô buộc miệng phân bua: -Thông cảm giùm tôi đi. Tôi yếu đuối và bất hạnh lắm ! Thốt ra câu đó xong, Thư nghe tủi thân quá, nước mắt liền lăn dài trên đôi má. Thư bỗng căm giận xã hội sao hết sức bất công, liệt cái mặt hàng duy nhất mà cô có vào loại hạng bét. Nếu đó không là một nhu cầu bức thiết đối với nam giới và được họ săn lùng ráo riết thì làm sao xuất hiện những nhà cung cấp như cô. Nó còn quan trọng, cần kíp gấp mấy lần chuyện cơm, áo nữa là đằng khác, bởi không ít người đàn ông phải bỏ danh dự, tài sản, sinh mạng của họ vì nó. Thử hỏi nếu không có mấy người phụ nữ như cô, xã hội sẽ giải quyết vấn đề ấy bằng cách nào ? Đâu phải ai ai cũng may mắn tìm được nửa kia của mình. Cho dù tìm được rồi thì cũng "hãy đợi đấy !" chớ đâu có "muốn là được" ngay đâu. Những lúc ấy, nếu không có những cô gái tội nghiệp đó, thì ai có thể giúp họ giải quyết cái nhu cầu mà "trời cho không nhận không xong" ấy ? Xét cho cùng, những bức xúc của Thư đâu phải là không chính đáng. Những người phụ nữ trót mang cái nghiệp : "Sống làm vợ khắp người ta " ấy, đáng lẽ được xem như ân nhân của nhân loại nói chung và nam giới nói riêng. Đáng lẽ họ phải được đền đáp một cách thỏa đáng. Đáng lẽ mỗi năm nên có một ngày vinh danh, để ghi nhận công lao to tát ấy. Thế nhưng ngược lại ! Họ bị khinh khi, rẻ rúng đến tận cùng ! Điều nầy khiến những "công nhân" của cái nền công nghiệp rất sạch vì không xả khói và rác, cũng không tiêu tốn nhiên liệu nhiều như mấy ngành khác vì chỉ diễn ra trong bóng tối, hoặc dưới mấy ngọn đèn mù mờ ấy, mang mặc cảm mình là đồ bỏ đi rồi nãy sinh những tư tưởng tiêu cực, không còn quý trọng bản thân nữa. Với những người mà ngay cả bản thân còn không yêu quý thì đừng đòi hỏi họ quý trọng điều chi. Họ sẽ trở nên nông nổi, sẽ bị lợi dụng, biến thành nạn nhân và công cụ của những kẻ giàu thủ đoạn. Bị ngược đãi nên đôi khi họ cư xử hết sức tàn nhẫn với những người khác, kể cả với bản thân. Chính giống đực là nguyên nhân trực hoặc gián tiếp đưa đẩy các cô gái đến cái khổ nghiệp ấy. Họ thực hiện hành vi bóc lột của mình một cách vô cùng tinh vi rồi sau đó lại trục lợi. Họ cố tình gieo rắc trong tâm thức của giống cái rằng đó là điều đồi bại nhất của đàn bà, một cái tội tày trời không thể thứ tha. Họ khiến cho những cô gái sa chân vào cái nghề ấy bị dày vò cả tinh thần lẫn thể xác. Những người phụ nữ nào đã thực hiện việc giao phối không phải với chồng của mình, cho dù là chủ động hay thụ động, đều mang mặc cảm có tội, phải giấu kín bưng và sống với cái tâm trạng nơm nớp lo âu suốt đời. Nếu công việc của họ được đánh giá một cách thật công bằng, sáng suốt. Nếu xã hội không do đa số đàn ông điều hành. Nếu nam quyền không đặt lên hàng đầu. Nếu cái đẹp về hình thể không được suy tôn quá đáng... thì cái mà người ta đang gọi là "tệ nạn" ấy, đâu trở nên vượt quá tầm kiểm soát. Từ ngày căn bịnh Aids hoành hành, những con bướm đêm ấy lại càng bị truy lùng dữ dội. Họ lại bị gán cho cái tội gieo rắc dịch bệnh, tai ương. Lại một lần nữa, họ, những nạn nhân lại bị đối xử y như thủ phạm. Mà theo Thư và một số người khác, thì nguyên nhân tạo nên đại dịch ấy, bắt nguồn từ những đôi "pê đê" mà thôi. Cái thân phận bị mua và bị ngược đãi ấy được áp đặt cho tất cả phụ nữ, không loại trừ một ai, kể cả những người xuất thân từ giới quý tộc, như công chúa Huyền Trân chẳng hạn. Bà công chúa ấy đã có công với đất nước biết bao ! Nhờ bà nên nước ta mở mang thêm bờ cõi mà không tốn đến một giọt máu. Thế nhưng để đền đáp lại bà đã phải chịu biết bao nhiêu lời đàm tiếu. Và như còn chưa đã nư giận, ông trời bắt bà phải gánh thêm sự dè bĩu của hậu thế cho đến tận ngày nay. Biến con đường mang tên bà thành cái chợ tình tai tiếng nhứt Sài Gòn. Một nữ sĩ khác còn có số phận bi đát hơn Công Chúa Huyền Trân, đó chính là bà Thị Lộ, vợ của vị đại thần Nguyễn Trãi. Bà bị chồng dâng cho vua, khi vua chết và cho dù nguyên nhân không phải do bà. Bà vẫn bị xử tử hình với bản án dìm cho chết ngộp. Cái mạng của một vị vua, cho dù là loại sâu dân mọt nước, cũng được xem là một tổn thất nặng nề của đất nước. Để bù đắp lại người ta bèn giết thêm những vị công thần, những trang liệt nữ khác. Người ta ca tụng bà Trưng, bà Triệu, bà Bùi thị Xuân bởi công trạng của họ mang hơi hướm của đàn ông. Họ cởi voi, cầm giáo, giết quân thù chẳng gớm tay. Những người phụ nữ giữ đúng bản sắc, dùng khí giới của chính mình, cho dù có xã thân vì nước cũng chẳng ai được vinh danh như vậy. Sinh ra làm đàn bà là phải chịu đựng biết bao nhiêu thiệt thòi. Ngay từ lúc lọt lòng đã không được hân hoan chào đón. Ở một số quốc gia, đẻ con gái là một thảm họa, đứa bé đó có khi còn bị giết chết. Cho dù ai cũng biết rằng không có họ thì nhân loại sẽ đi đến chỗ diệt vong, thế nhưng cái hành động giúp lưu truyền nòi giống đó lại bị cho là tội lỗi, nhứt là đối với những người phụ nữ không có được cái chức danh "vợ". Ngày nay ai cũng thơn thớt cái miệng là mình chủ trương nam, nữ bình quyền, thế nhưng thử đến mấy cái nhà bảo sanh mà coi. Những ca sanh con so là trai, chẳng những ông bà nội ngoại, cha mẹ đứa trẻ sơ sinh đó mừng rở tột cùng. Các bác sĩ, y tá mặt mày cũng tươi rói. Họ nói như reo với sản phụ: -Xin chúc mừng, bà đã có một cậu quý tử rồi ! Ở những ca sanh con gái họ cũng thông báo như trên, có điều bỏ bớt ba chữ "xin chúc mừng", bởi đâu biết người mẹ ấy có mừng không mà chúc . Cái nghiệp "làm vợ khắp người ta " ấy là một loại mực mà những người phụ nữ không may mắn như Thư, nếu đã lỡ dính vào thì chẳng bao giờ gột rửa cho sạch bong. Chúng suốt đời như một vết thương chẳng bao giờ lành. Họ sẽ mãi mãi băng bó và luôn luôn đau xót. Càng nghĩ Thư càng uất ức, nước mắt cứ tuôn ra không kềm lại được. Đó là những giọt nước mắt hết sức lẽ loi vì đâu ai chia sẻ! Và đó mới chính là những giọt nước mắt thật nhất, mặn nhất, xót xa nhất...Nó có vị cay đắng của nỗi tủi buồn, mùi mục rửa của một loại hoa không kết trái. Thật ra với công việc và đồng lương hiện tại Thư có thể duy trì cuộc sống mà không cần phải lệ thuộc vào ông Tiến. Thế nhưng cô đã quá gắn bó với những tiện nghi vật chất. Với căn nhà khang trang. Với cái phòng ngủ có gắn máy điều hòa. Với cái giường đắt tiền, tấm nệm Kim Đan, bộ drap gối mền cao cấp. Với cái tủ lạnh đầy nhóc trái cây cùng những thức ăn xa xỉ mà ngày xưa Thư không nuốt nổi như phô mai, bơ, ma don ne...Tất cả những thứ ấy giờ đã quen thuộc đến độ trở nên cần thiết như không khí và nước đối với cô vậy. Cần thiết cho đến nổi cô phải có chúng bằng mọi giá, kể cả phải đánh đổi lòng tự trọng của mình. Chiếc xe Dream, điện thoại di động, kể cả chiếc nhẫn nhỏ xíu Thư đeo trên ngón tay...Tất cả đều cho Thư một niềm khoái cảm sâu xa, êm ái khi nhìn ngắm. Chúng đều do ông Tiến mua tặng, Thư yêu chúng nên yêu luôn ông ta từ hồi nào chẳng biết. Sự xuất hiện của ông Hùng khiến Thư lo sợ rằng một ngày nào đó, ông Tiến sẽ biết được quá khứ của cô và không nhìn nhận đứa bé trong bụng cô là con của ổng. Người ân nhân mà đã bao lần Thư nhớ đến với lòng biết ơn sâu sắc, bây giờ bỗng trở thành một mối hiểm nguy bậc nhất. Đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ cuộc sống của cô. Cho nên thay vì đền ơn, cô chỉ muốn tống ông ta bay ra khỏi trái đất càng xa, càng tốt. Khóc đã thèm rồi, nước mắt cạn hết rồi...Thư dần dần lấy lại sự bình tâm. Tuy nỗi buồn phiền, sự lo sợ vẫn còn tràn tới miệng, nhưng đầu óc đã nhẹ đi nhiều và tỉnh táo hơn một chút. Thư cũng đã nghĩ ra được giải pháp: Cô sẽ đi tìm ông Hùng, năn nỉ để ổng không kể với ông Tiến việc cứu cô. Trong trường hợp ổng không đồng ý, cô sẽ làm mất uy tín của ổng, bằng cách nói với ông Tiến là ông Hùng đã tỏ tình với cô và bị cô cự tuyệt, để rủi mà ông ta có kể thì ông Tiến cũng không tin. Nghĩ thông rồi là Thư thực hành liền. Cô tốc mền ngồi dậy, đi rửa mặt, thay đồ để đến nhà ông Hùng không chậm trễ một giây nào. Thư chọn bộ đồ giản dị nhất. Cô không trang điểm, chỉ chải tóc cho thật thẳng, rồi cột lại bằng sợi dây thun màu đen. Cô biết mình phải trông thật đơn sơ, hiền lành, mộc mạc trước mặt ông Hùng thì ông ta mới có thiện cảm với mình. Những típ người như ông ấy, phương pháp hữu hiệu nhứt để sai khiến chính là khơi gợi cái lòng trắc ẩn, vốn hết sức dồi dào trong họ.
Thư cứ tưởng là mình chẳng thể nào quên cái xóm nhỏ ấy, nào ngờ đi tìm loay hoay, đảo tới, đảo lui cả tiếng đồng hồ cũng chưa gặp. Hôm ấy cô đi khỏi chỗ đó lúc tờ mờ sáng, lại quá hổ thẹn nên cứ cắm đầu mà bước. Lúc đó cô đâu có nghĩ sẽ quay trở lại để mà ráng nhớ. Hơn nữa mấy năm gần đây, Sài gòn thay đổi nhanh đến chóng mặt, cho nên Thư cứ đi lòng vòng mãi mà không tìm ra được. Chán nản quá Thư bèn dừng xe lại, ngó quanh... Một giọng phụ nữ đon đả: -Mua đậu phộng nấu đi cô. Bữa nay có đậu mới, ngọt và chắc lắm ! Thư nhìn người phụ nữ trung niên có gương mặt khá dễ coi ấy. Cười thật tươi để lấy cảm tình rồi hỏi: -Chị làm ơn cho em hỏi thăm. Chị có biết nhà của cái ông bơi xuồng đi vớt rác trên sông không vậy ? Người phụ nữ ấy lớn tuổi hơn Thư nhiều nên nghe Thư gọi mình bằng chị thì khoái ra mặt. Cô ta đáp một cách sốt sắng: -Biết chớ sao không? Ổng ở sát vách với tui mà . Thư mừng rơn vội nói: -Chị cho em mua hết cái chỗ đậu phọng nầy nghe ! Em xin phép chở chị về và nhờ chị chỉ cho em nhà của ổng có được không chị ? Cô Tám, người phụ nữ ấy, mừng rơn nhưng còn làm bộ mại hơi: -Cô mua nhiều quá ăn đâu hết. Thôi chờ đó đi, một lát bán xong rồi, tui dắt cô lại nhà ổng giùm cho. Thư năn nỉ: -Em thích đậu phọng nấu lắm. Bây nhiêu đây em ăn cái một. Chị cứ gói hết cho em. Cô Tám bèn trút hết đậu phọng vào cái túi ni lông rồi đưa cho Thư. Thư hỏi: -Bao nhiêu vậy chị ? Cô Tám, cũng như tất cả người bán hàng chuyên nghiệp khác, hể gặp khách mua có vẻ sang sang, thì đều nói: -Cô trả bao nhiêu cũng được. Thư móc tờ giấy bạc có mệnh giá cao nhứt ra đưa. Cô Tám ngần ngại: -Đưa làm chi tiền lớn quá, tui đâu đủ thối ? Thư cười, nói cho cổ yên tâm: -Chị cứ cầm đi, khỏi thối, đừng có ngại gì hết. May mà em gặp chị chớ không thôi cứ chạy vòng vòng hoài. Bây nhiêu tiền đó cũng không đủ đổ xăng. Cô Tám nghe vậy thì mừng rơn, lật đật nhét tờ tiền vô túi. Thư đập nhẹ lên yên, chỗ ngay sau lưng, mời: -Chị lên ngồi đi, em chở về cho. Cô Tám bưng cái rỗ không, thót lên ngồi một bên. Thấy cổ không dám ôm mình, Thư nói: -Chị cứ ôm chặt em đi, không có sao đâu. Cô Tám đáp: -Tui nắm cái yên được rồi, không té nổi đâu. Thư hỏi : -Chạy hướng nào hả chị ? Cô Tám đáp: -Cô chạy hết con đường nầy là tới một cái hẻm nhỏ. Chạy thẳng vô luôn, mút con hẻm là tới nhà ổng. Thư vừa đi vào con đường trải đá nhỏ xíu là nghe mùi sình xông lên nồng nặc. Cô bất giác nín hơi rồi chịu hết xiết nên thở ra một cái khì thật mạnh. Cô Tám giải thích: -Bữa nay nước ròng nên mới hôi nhiều như vậy đó ! Cô mới tới nên chịu không nổi. Tụi tui ở riết rồi cũng quen. Chiếc xe dừng lại trước căn nhà nhỏ còn hơn Thư tưởng tượng. Thấy vẻ mặt ngạc nhiên của Thư, cô Tám giải thích: -Miếng đất nầy ngay ngã ba, xấu thế lắm, không ai dám cất nhà nên mới còn mà tới tay ổng. Thư hỏi: -Tại sao ngay ngã ba là xấu vậy chị ? Cô Tám giải thích: -Đất ngay ngã ba là bị người ta dòm chòng chọc, cái nầy kỵ lắm ! Hơn nữa ngay chóc mũi xe, rủi nó mà đứt thắng là mình lãnh đủ cho nên ai cũng né. Thư hỏi như nói một mình: -Cái nhà hẹp té như vầy làm sao mà ở ? Cô Tám giải thích: -Hồi đó ổng ở phía trước, chỗ căn nhà nầy. Bây nhờ nhường lại cho ông Chín nên lui về phía sau. Đi hết cây cầu là tới nhà của ổng liền Rồi chỉ tay vào cây cầu cặp bên hông căn nhà hẹp té đó. Cô Tám nói thêm: -Nhà ổng không chừa đường đi vô nên rộng hơn một chút. Cây cầu dựng quá xơ xài, bề ngang chừng năm, sáu tấc vừa đủ cho một người đi. Không đủ chỗ để dắt xe, nên muốn vào nhà Thư phải để xe bên ngoài, mà như thế thì mạo hiểm quá ! Thấy nét mặt Thư lộ vẻ phân vân, cô Tám đã đoán ra. Cổ nói: -Cô cứ đứng đó đi, để tui kêu ổng ra giùm cho. Rồi cổ kêu to: -Anh Hai ơi ! Anh Hai ! Thấy Thư nhìn mình, cổ giải thích: -Hổm rày có một ông ăn mặc rất lịch sự , cũng đi xe "rim" như cô, tới kêu cửa hoài mà ổng không chịu lên tiếng. Chắc thiếu nợ người ta nên lánh mặt. Cô có kêu tới khan tiếng, ổng nghe cái giọng lạ hoắc cũng không chịu ra đâu.
|