Bạn chưa có tài khoản? Hãy bấm vào đây để đăng ký làm thành viên của chúng tôi!
Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Bay Về Tổ Ấm
Hôm nay, 23 Tháng 9 2024, 10:28
Thời gian được tính theo giờ UTC - 4 Giờ [ Giờ DST ]

Đăng nhập

Tên thành viên: Mật khẩu: Đăng nhập tự động mỗi lần ghé thăm Ẩn trạng thái trực tuyến của tôi trong phiên đăng nhập này


Trung Học Tân Châu


» GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ «




Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 3 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]
Người gửi Nội dung (Xem: 863 | Trả lời: 2)
Tiêu đề bài viết: GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ
Gửi bàiĐã gửi: 07 Tháng 7 2009, 18:44
Ngoại tuyến
Founder
Founder

Ngày tham gia: 18 Tháng 6 2007, 19:30
Bài viết: 2448

Người tạo chủ đề
GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ
GS Vũ Quốc Thúc

Mới đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về hai câu thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là hai câu lục bát:

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...


Ngay từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định (1934 - 1937), tôi đã được đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài thơ tứ tuyệt:

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,
Mịt mù bãi cát màn sương,
Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..


Thiên Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là tên một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ (tức Hà Nội). Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những ai sinh trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng chọn địa danh Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa danh Trấn Vũ mới đúng sự thật.

Bản thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy: trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn về một đề tài liên can tới văn học sử chúng ta cần phải khách quan và tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau đây.

Trước hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một tổng thể gồm 4 địa danh: Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn địa danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt là làng Yên Thái chuyên nghề làm giấy bản: trong làng suốt ngày vang tiếng chày giã bột giấy của nhân dân. Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên can tới một vùng nhất định là vùng ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ thì làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương, một nơi cách xa Huế hàng nghìn dặm? Đọc bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác ở đâu trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông (hay bà?) ta đang ngụ ở một nơi trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái không xa lắm nên mới nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày giã bột giấy của dân làm giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ viết bài này từng cư ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường Quan Thánh qua trường Bưởi (tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là trường Chu Văn An), tới Vườn Ươm Cây của Thành Phố Hà Nội (vì thế con đường mới mang tên Pépinière) rồi tới các làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy Vườn Ươm Cây và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài thơ thuật rằng mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở bờ hồ đồng thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa. Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng một bài thơ khác khởi đầu như sau:

Trống canh năm gà vừa gáy sáng,
Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!
Ngắm phong cảnh đẹp vô cùng:
Hỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!


Tác giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói tiếng gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm: có lẽ tiếng gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm chăng? Vì thế tác giả mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm canh! Đây là một nghệ thuật chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn, có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm đâu! Chẳng trách có người đã hiểu lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup of Thọ Xương (bouillon de poulet de Thọ Xương)! Tiếng chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây xúc động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ Trung Hoa, ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi chuông từ chùa Hàn San vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài thơ trứ danh trong đó có hai câu:

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh náo khách thuyền!
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)


Hồi chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất thường như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San: đó chỉ là hồi chuông được gióng lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang có chuyện ưu tư hay phiền não nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi đời trần tục này đều là vô thường!

Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!


Tác giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông (hay bà) ta đã chú tâm đến hồi chuông này. Có thế thôi! Dựa trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau: tác giả vừa thức dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc trước nhà la đà trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa Trấn Vũ vang dội cùng lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ "Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính cầm canh báo cho ai nấy biết rằng canh năm tới rồi!".

Tác giả nhìn về phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt nước Hồ Tây lóng lánh như một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác bốn câu lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày nay.

Rõ ràng đó là một bài thơ tả cảnh, rất hiện thực. Tuyệt nhiên không phải là thơ tả tình vì không có một câu nào, một từ nào, nói lên tình cảm của chủ thể. Điều bất ngờ là do các biến chuyển của thời cuộc, bài thơ dần dần trở thành thơ tả tình, hơn thế nữa: đã được dùng như một thông điệp để biểu lộ một thái độ chính trị.

a) Chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa (1863) rồi đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1884). Lợi dụng tình trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần dần biến chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế. Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của những thành phố này thay đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu cựu học cảm thấy nhớ tiếc thời đất nước còn tự chủ: thời Hà Nội còn gọi là Thăng Long với những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ tuyệt "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói lên tâm trạng hoài cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục quốc. Nhưng sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... của các phong trào duy tân như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã chán nản, chua chát ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt.

Thí dụ: Cụ Tú Trần Kế Xương trong mấy câu: Sự biến

Vợ lăm le ở vú!
Con tấp tểnh đi bồi!
Khách hỏi nhà Ông đến:
Nhà Ông đã bán rồi!


b) Sự biến chuyển thứ hai xNy ra trong những năm đầu của thập kỷ 1930. Sau khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt N am Quốc Dân Đảng và của Đảng Cộng Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp dụng chính sách "lập lờ đánh lận con đen" với hy vọng ru ngủ nhân dân hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp chính, Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh, định chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải là cải cách nửa vời, giả dối! Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" bị coi như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư "tân học" để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức hí họa trong đó sáu cụ "Thượng mới", quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục
bát:

Gió đưa cành trúc la đà
Một thuyền chật ních bài ngà thượng thư ...


Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" trước kia được coi là biểu tượng của thái độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ thủ cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!

c) Sự biến chuyển thứ ba xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Mụ. Ba mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ và những người Việt không chịu hồi hương sau khi Liên Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều người nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ.

Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại như tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh một cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng "la đa" là một đàn la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng sau đây:

Roi tre vun vút vung ra:
Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...
Vợ Trời giáng một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà Tầu!


Nếu dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên không có đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt N am, thì tôi nghĩ rằng cũng tội nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như ông, cha của họ!

Kẻ đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông, cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà chúng ta đã hấp thụ.

Thiên phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đa” đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoãn nữa: cần phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này.

GS VŨ QUỐC THÚC
(Paris)


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Thầy Nguyễn Thành Tài sưu tầm - Re: GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ
Gửi bàiĐã gửi: 08 Tháng 7 2009, 13:27
Ngoại tuyến
Founder
Founder

Ngày tham gia: 18 Tháng 6 2007, 19:30
Bài viết: 2448

Người tạo chủ đề
Gió Đưa Cành Trúc La Đà
Minh Vũ Hồ Văn Châm

Đầu năm 1988, tôi trở về thăm Huế sau mười mấy năm trời xa cách. Trước cảnh lâu đài đình tạ cát lấp rêu phong, trước vẻ nghèo khó xác xơ của người dân Huế hàng ngày chật vật với miếng cơm manh áo, lòng tôi luống những ngậm ngùi. Cung cách đài các kiêu sa của chốn đế đô mơ mộng không còn tìm đâu ra vang bóng!

Biết nói gì với những bạn đồng hành trước đây chưa một lần đến Huế nhưng lại nghe và đọc rất nhiều về Huế. Tôi chợt nhớ tới bà Tân Du, tiểu thư quan Lễ Bộ Thượng Thư Võ Liêm và là Đệ Tam Giai Phi (Tân nhân) (1) của vua Khải Định. Bà Tân Du lá ngọc cành vàng, là người của lầu son gác tía, một thời nổi danh hương trời sắc nước. Sau năm 1945, theo vận nước nổi trôi, bà Tân Du rời Đại Nội trở về với cuộc sống bình thường. Bắt đầu từ đó, bà từ giã cuộc đời vương giả kiêu sa, ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời mới, mỗi ngày một khó khăn chật vật vì chén cơm manh áo, nhưng luôn luôn ghi nhớ và ứng dụng câu ngạn ngữ "Giấy rách vẫn giữ lấy lề". Cho đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, bà Tân Du vẫn chịu khó giữ cho cái vẻ bên ngoài được tươm tất, dù cho phải mất nhiều công sức để che dấu cái vá chằng vá đụp bên trong. Đấy, Huế ngày nay của chúng tôi là thế đấy, hỡi những người bạn phương xa đến thăm Huế lần đầu.

Vậy thì Huế ngày nay có thể được ví von như một bà già nghèo khó, thất thế sa cơ, đang cố công cố sức che đậy vẻ lam lũ bên ngoài, và mặt khác rất mực tự hào về cái phong tư thanh nhã đã được hun đúc qua những thử thách dồn dập của cuộc đời, cái phong tư tự nhiên mà có trong từng tia máu, từng thớ thịt, bởi một lẽ giản đơn : xưa kia vốn là tiểu thư ngàn vàng, là thiếu phụ vương giả. Cho nên, đến thăm Huế, xin đến với tấm lòng chân thật, đôn hậu, tấm lòng trong sáng thanh cao, để hoài niệm về những cái chân, thiện, mỹ của một thời vàng son lộng lẫy, để cảm nhận cái thơ mộng của mây tím hoàng hôn rực rỡ đằng sau màu xanh đen thẩm của dãy núi Kim Phượng, để xao xuyến với vẻ tinh khiết của những giọt sương mai ngưng đọng trong lòng sen Tĩnh Tâm đang bừng rộ nở hoa mỗi độ sang hè. Và sau hết, đến thăm Huế hay ở xa nghĩ về Huế, xin hãy trả lại cho Huế những gì của Huế.

Từ thuở ấu thơ, lùi xa về trước năm 1945, cho đến tuổi trung niên, giữa năm 1975, mình trần thân trụi vào sống trong các trại tập trung cải tạo, tôi thường nghe nhắc nhở đến câu ca dao :

"Gió đưa cành trúc la đà,
"Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.


Câu ca dao được nhắc nhở trong những tình huống khác nhau, nhưng tựu trung thì cũng vì mỗi một mục tiêu văn chương nghệ thuật, muốn tô điểm cho tác phẩm thêm phần ướt át, mượt mà. Thảng hoặc, cũng có trường hợp người ta mượn chuyện văn chương để mà châm biếm nhau, như câu chuyện "chicken soup" được gán cho một vị dân biểu khi công du nước ngoài đã có cái nhầm lẫn to lớn dịch câu ca dao trứ danh trên đây ra Anh ngữ với cụm từ Thọ Xương chicken soup!

Tôi không dám tự phụ đã đọc hết sách báo Việt ngữ xuất bản trước năm 1975, nhưng tôi có thể khẳng định trước năm 1975 trên diễn đàn văn học Việt Nam, không ai đặt vấn đề câu ca dao trên không phát xuất từ Huế. Cũng có người thắc mắc về điạ danh Thọ Xương là tên một huyện thời trước ở vùng ven Hà Nội, một địa danh không tìm thấy ở vùng ven Huế và đã giải thích rằng sở dĩ Thọ Xương cùng đi chung với Thiên Mụ là vì có lẽ tác giả câu ca dao là một người sinh trưởng ở Hà Nội đã vào lập nghiệp ở Huế, nhân đi chơi trên sông Hương lúc nửa đêm về sáng, nghe tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga bỗng cảm khái nặng lòng cố quận mà tưởng tới canh gà Thọ Xương. Sự giải thích như vậy chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho hai chữ Thọ Xương, chứ không hề muốn thay đổi ý tứ và phủ nhận xuất xứ của câu ca dao đã trở thành quá quen thuộc đối với người dân trong cả nước. Lại cũng có người cho rằng không phải Thọ Xương mà là Thọ Khương, tên một làng nằm bên bờ sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ. Sở dĩ Thọ Khương biến thành Thọ Xương là vì có người vui miệng nói trại Thọ Khương thành ra Thọ Xương, rồi vì chữ Thọ Khương khó đọc hơn, khó nói hơn nên đã phải nhường chỗ cho chữ Thọ Xương trong cửa miệng dân gian, chẳng khác gì trường hợp Phu Văn Lâu biến thành Phú Văn Lâu, hay đơn giản hơn, Văn Lâu:

Trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm...


Đố ai tìm được người bình dân Huế nào nói đúng ba tiếng Phu Văn Lâu, mà đối với người thông hiểu Hán tự thì Phu Văn mới có nghĩa chứ Phú Văn thì có hay ho gì. Quá trình phát triển của sinh ngữ là như thế đấy và mấy ai thay đổi được cửa miệng dân gian.

Vậy thì, cho dù là canh gà Thọ Xương hay canh gà Thọ Khương thì những vế còn lại của câu ca dao không có gì thay đổi. Cành trúc la đà trên bến nước sông Hương, tiếng chuông ngân nga từ chùa Thiên Mụ, toàn thể câu ca dao diễn tả cảnh sắc xứ Huế và tình cảm con người sống tại Huế, bất kể nguyên quán là Trung, là Nam, là Bắc.

Thế rồi, sau năm 1988, từ trại cải tạo trở về, trong những ngày sống ở Sài Gòn chờ xuất cảnh, tôi có dịp đọc một số báo Việt ngữ xuất bản ngoài Bắc, sửa câu ca dao nêu trên lại như sau :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.


Các bài văn bài báo này đã trích dẫn câu ca dao ấy một cách hết sức tự nhiên, xem như chưa từng có một câu ca dao tương tự đã được lưu truyền trước đó. Cũng không ai nêu lên vấn đề Thiên Mụ hay là Trấn Võ, tại sao phải đổi Thiên Mụ thành Trấn Võ. Mãi đến đầu năm 1990, tạp chí Sông Hương xuất bản ở Huế mới rụt rè đặt lại vấn đề xuất xứ của câu ca dao. Theo tác giả của bài báo, trên bờ nam sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ, có một làng tên là Thọ Khương, và câu ca dao nêu trên là lời ru quen thuộc của cả vùng ven đô đó, bất kỳ người dân nào của Thọ Khuơng, cho dù đi tận chân trời góc biển, vẫn không bao giờ quên lời ru của mẹ, của bà ngày trước văng vẳng bên tai và giờ đây đã thấm sâu vào tim, vào óc. Rồi tạp chí Sông Hương đưa ra một kết luận có vẻ dĩ hòa vi quý, hết sức nhỏ nhẹ rất là Huế, rằng như vậy là có đến hai câu ca dao, một câu là :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.


và một câu là :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khuơng.


Chẳng thấy ai có ý kiến gì khác. Rồi tạp chí Sông Hương bị đình bản, và ít lâu sau, trên một bức tranh chụp cảnh Hồ Tây, tôi lại thấy có in mấy câu chú thích như sau :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.


Toàn bộ mấy câu này nghe thoáng qua có vẻ xuôi tai, nhưng xét kỹ lại thì phần sau ý tứ hời hợt, không ăn khớp với phần trước về phương diện nội dung. Hơn nữa, mặt sông, mặt hồ chỉ phẳng lặng, sáng rỡ như gương khi trời quang mây tạnh, "giang tâm như kính tịnh vô trần", chứ không tài nào sông hồ lại có thể phơi bày mặt gương cho thiên hạ quang chiêm khi khói sương mù mịt. Đáng tiếc lắm thay! Câu ca dao được lưu truyền hàng trăm năm nay, đẹp đẽ và quý báu như chiếc vòng ngọc bích muôn phần hoàn hảo thì nay thêm thắt vào mấy câu đã trở thành chiếc vòng ngọc khảm vàng mười đỏ choé! Có người phụ nữ thanh lịch và cao sang nào lại chịu đeo chiếc vòng khảm vàng mười đỏ choé đó vào cổ tay.

Đối với một bà già nghèo khó, thất thế sa cơ, bất cứ ai là kẻ có lòng cũng không nỡ đang tâm tước đoạt một vài vật trang sức còn sót lại trên người bà. Hãy giữ nguyên vẹn những thứ ấy, vì đó là chứng tích của một thời vàng son xa xưa, khi bà còn là thiên kim tiểu thư, khi bà còn là đệ tam giai phi. Giữ nguyên vẹn không phải là giữ nguyên cho bà làm của riêng. Giữ nguyên vẹn là vì nó đẹp quá, nó quý quá, giữ nguyên vẹn để cho mọi người của muôn đời có dịp thưởng thức. Riêng đối với con em làng Thọ Khương, xin các ngài cũng đừng khăng khăng câu nệ. Thọ Khương đã biến thành Thọ Xương, là do vua quan nhà Nguyễn (2), mà cũng là do cửa miệng người đời, mà đã là thành quả của đại khối quần chúng thì xin đừng động chạm đến.

Tóm lại, trước sau cũng chỉ có một câu ca dao thôi :

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.


Ottawa, tháng tám,1995
Minh Vũ Hồ Văn Châm


Chú giải:
(1) Cửu giai :
- Đệ nhất giai Phi
- Đệ nhị giai Phi
- Đệ tam giai Tân
- Đệ tứ giai Tân
- Đệ ngũ giai Tiệp Dư
- Đệ lục giai Tiệp Dư
- Đệ thất giai Thục Nhân
- Đệ bát giai Mỹ Nhân
- Đệ cửu giai Tài Nhân

(2) Ở thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, cách sông đối mặt với gò Thiên Mụ là gò Long Thọ, tên cũ thời các chúa Nguyễn là Thọ Khương (Thọ Khang), đầu đời Gia Long đổi tên làm Thọ Xương, niên hiệu Minh Mạng thứ năm (1824) lại đổi làm Long Thọ Cương.


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ
Gửi bàiĐã gửi: 10 Tháng 7 2009, 03:01
Ngoại tuyến
Member V
Member V

Tuổi: 74
Sinh nhật: 00-00-1950
Ngày tham gia: 21 Tháng 11 2007, 12:07
Bài viết: 287
Quốc gia: Vietnam (vn)
Nói mọi người nghe, có cười HH cũng đành chịu, chứ thật tình HH vốn rất dở chuyện văn chương. Đã vậy, học gì, đọc gì HH cũng không lưu ý tìm hiểu cặn kẽ, cái gì cũng hiểu đại khái, lớt lớt; nhớ gì cũng nhớ mài mại, mang máng,.. Bởi vậy HH bị "chết lên chết xuống" nhiều phen rồi...

Nay nghe các tác giả phân tích về mấy câu ca dao trên, HH càng thấy hiểu biết của mình thật là hời hợt. Thôi thì đành tự bào chữa rằng đó không phải là vấn đề thuộc chuyên môn của mình vậy chớ biết sao!?

Nhưng đọc những bài trên, tự nhiên trong cái trí nhớ "mài mại, mang máng" của HH hiện ra rõ mồn một mấy câu ca dao đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam. Mấy câu ca dao này được in trên bìa của một tập nhạc Phạm Duy loại bỏ túi:


Miến đất ấy có lần tôi muốn ghé,
Nhưng ngại ngùng chẳng dám dừng chân.
(Ca dao miền Bắc)

Gió đưa cành trúc La Ngà*,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
(Ca dao miền Trung)

Cây đa trốc gốc thôi rồi!
Đò đưa bến khác còn ngồi đợi ai?
(Ca dao miền Nam)


Tự nhiên HH nhớ đến chuyện hồi xưa - hồi bọn HH còn học phổ thông, nên chia sẻ chút chút với mọi người, hoàn toàn HH không dám tham gia ý kiến gì về chuyện "Thiên Mụ" hay "Trấn Vũ", vì chuyện đó nằm ngoài khả năng của HH.
--------------------------
* HH lại nhớ là La Ngà mới kỳ chớ!


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Hiển thị những bài viết cách đây: Sắp xếp theo
Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 3 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]

» GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ «


Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 3 khách


Bạn không thể tạo chủ đề mới trong chuyên mục này
Bạn không thể trả lời bài viết trong chuyên mục này
Bạn không thể sửa những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể xoá những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể gửi tập tin đính kèm trong chuyên mục này

Tìm kiếm với từ khoá:
Chuyển đến:

Ai đang trực tuyến?

Ai đang trực tuyến? Trong tổng số 3 người đang trực tuyến: không có thành viên, không có thành viên ẩn và 3 khách
Số lượt người ghé thăm website đông nhất là 229 vào ngày 24 Tháng 6 2024, 14:08

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 3 khách

Thông tin trên được cập nhật trong vòng 5 phút vừa qua
cron
Powered by phpBBVietNam © 2006 - 2007 phpBBVietNam Group based on phpBB
Vietnamese translation by nedka
Founded by tranbc | Content © Trường Trung Học Công Lập Tân Châu