Bạn chưa có tài khoản? Hãy bấm vào đây để đăng ký làm thành viên của chúng tôi!
Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Bay Về Tổ Ấm
Hôm nay, 25 Tháng 11 2024, 19:22
Thời gian được tính theo giờ UTC - 4 Giờ [ Giờ DST ]

Đăng nhập

Tên thành viên: Mật khẩu: Đăng nhập tự động mỗi lần ghé thăm Ẩn trạng thái trực tuyến của tôi trong phiên đăng nhập này


Trung Học Tân Châu


» "Ở đời có bốn cái ngu..." «




Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 3 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]
Người gửi Nội dung (Xem: 835 | Trả lời: 2)
Tiêu đề bài viết: "Ở đời có bốn cái ngu..."
Gửi bàiĐã gửi: 12 Tháng 8 2009, 10:30
Ngoại tuyến
Moderator
Moderator

Tuổi: 69
Sinh nhật: 00-00-1955
Ngày tham gia: 21 Tháng 1 2008, 10:01
Bài viết: 218
Quốc gia: Virgin Islands (British) (vg)

Người tạo chủ đề
leekancook ở tuốt... tuốt bên Văn Học {L_WROTE}:
Câu đối của Sáo sậu trích từ Thanh Tịnh thiếu một chữ. Nguyên văn là " Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt "

Giờ đối đây :

"Cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt"

"Cu ấy hay gáy, hễ gáy lại ướt cu"

Chú thích :
Cu và gáy đều là con trym
Câu lee tui đối chưa chỉnh nhưng nghe nó dzui dzui.

Nhân đọc câu đối của ông bạn già leekancook, NT tui lại nhớ đến câu ca dao quen thuộc rồi tự nhủ: "Ừ hén, có nhiều từ, nhiều câu mình nghe quen lại hay sử dụng mà mình lại hong hiểu cặn kẽ. Lỡ con cháu nó có hỏi thì chắc là ấm ớ với nó! Thế là NT tui lại lên mạng mò... mò... và đây:

Gác cu là một hình thức bẫy chim cu bằng lồng bẫy có sử dụng chim mồi. Nó là một thú tiêu khiển nhưng cũng có thể là một nghề để kiếm sống ở Việt Nam.

Công cụ

* Lồng bẫy: lồng bẫy là lồng chim được ngăn thành hai phần, một phần để nhốt chim mồi và một phần có cửa được thiết kế lẫy để có thể sập xuống và nhốt chim sa bẫy. Thời xưa, lồng bẫy thường được làm bằng tre nhưng ngày nay làm bằng dây thép cho bền chắc và dễ chế tác hơn. Các mặt của lồng bẫy thường được che phủ bằng vải hoặc cành lá, chỉ để hở mặt có cửa sập nhằm dẫn dụ chim cu vào phía đó.
* Gậy: thường được làm bằng tre, trúc và có thể có nhiều đoạn nối dài được với nhau cho tiện dụng, ở đầu gậy có móc để tiện treo lồng bẫy và gạt cành, lá ở vị trí treo lồng.
* Ống kích: một số người bẫy chim cu còn có thêm một dụng cụ gọi là ống kích, tương tự như ống sáo nhưng ngắn hơn và khi thổi phát ra âm thanh giống tiếng cu gáy để dụ cho chim mồi gáy.
* Chim mồi: là chim cu gáy trống đã được thuần dưỡng, có tiếng gáy tốt để có thể dụ cho chim trời sa bẫy.


Cách thức


Người bẫy chim mang theo công cụ đến khu vực có chim trời và khi phát hiện tiếng chim trời gáy thì chọn vị trí để treo lồng bẫy. Vị trí treo lồng phải được lựa chọn cẩn thận sao cho các cành cây gần đó thuận tiện cho chim trời đậu trước khi tiếp cận chim mồi ở hướng dễ sa bẫy nhất. Sau khi treo lồng bẫy, người bẫy chim tìm chỗ kín để ẩn nấp và theo dõi kết quả. Chim cu gáy là loài sống định cư và vào mùa sinh sản, chim trống cạnh tranh nhau để giành chim mái nên khi phát hiện tiếng chim mồi gáy, chim trời gần đó sẽ phản ứng lại để khẳng định "chủ quyền". Trước tiên chim trời sẽ dùng tiếng gáy để gửi thông điệp cho chim mồi - kẻ xâm phạm lãnh địa và nếu tiếng gáy không giải quyết được vấn đề thì nó sẽ tiếp cận chim mồi để phân định thắng bại bằng sức mạnh cơ thể. Lồng bẫy đã được bố trí để chim trời tiếp cận ở hướng có cửa sập nên khi chạm vào lẫy, chim trời sẽ sập bẫy.

Người bẫy chim khi ẩn nấp phải tránh không gây ra tiếng động khiến chim trời sợ và bay đi đồng thời theo dõi diễn biến cuộc cạnh tranh giữa chim mồi và chim trời. Cảm giác căng thẳng, hồi hộp khi chờ đợi cũng như niềm vui khi bắt được hay nỗi thất vọng khi không bắt được chim trời chính là tính hấp dẫn của gác cu. Tuy nhiên, trên thực tế gác cu đòi hỏi nhiều thời gian và công sức vì ngoài các yếu tố ngoại cảnh khiến cho chim trời bị đánh động và bỏ đi, chim trời có thể chỉ sử dụng tiếng gáy chứ không tiếp cận chim mồi dẫn đến gác cu không đạt kết quả. Do đó để bẫy được một con chim cu gáy, người đánh bẫy có thể mất nhiều ngày nhưng những con chim bắt được theo cách này thường có tiếng gáy hay, giá trị cao.


Biến thể

* Gác cu theo truyền thống phải treo lồng trên cành cây, đặt lồng xuống đất tạo điều kiện cho chim trời dễ tiếp cận chim mồi ở hướng có cửa sập hơn nhưng người đánh bẫy thường không áp dụng vì như vậy sẽ mất đi cái thú và thậm chí coi đó là hạ thấp giá trị của gác cu.
* Một cách để bẫy chim cu còn gọi là "gác lưới" rất khác với cách trên, chim mồi được buộc dây để đậu trên mặt đất hoặc sát mặt đất và dùng lưới bố trí quanh đó. Khi chim trời bị dụ tới, người đánh bẫy giật cho lưới sập. Cách này có hiệu suất bắt chim cao vì nhanh chóng và có khi bắt được nhiều chim trời một lúc nhưng không được coi là thú chơi mà chỉ dùng bẫy chim làm thực phẩm.

Hiện nay, việc đánh bẫy chim cu gáy dưới mọi hình thức ở Việt Nam gần như chưa được kiểm soát.

Ca dao

gác cu là một công việc vất vả, cực nhọc. Bản thân con cu là giống vật sống sâu trong rừng thiêng nước độc, cây lá um tùm, kín kẽ. Người gác cu phải nhiều phen nằm chồm hổm canh chừng trong bụi, chịu côn trùng cắn, lại phải canh chừng rắn độc. Việc này diễn ra có khi hằng ngày, hằng tháng mà chưa gác được con cu vừa ý, nếu gác được cu dở thì cũng như không vì cu thịt giá trị thấp, mà thường thường trong hàng trăm con cu mới tìm ra được một con cu tốt. Đã vậy cu lại là thứ bất trị, tính tình lúc lên lúc xuống, thiếu trung thành, có gác được con cu về nuôi rồi, thì dù nuôi lâu hay mau, chăm sóc đến mấy đi nữa, chỉ cần mình đủ lông, thân đủ cứng, thì cứ hễ thấy cái lỗ lồng hé mở, là cu chui tọt ra bay mất, vậy nên người đời coi việc gác cu là một việc dại, không ra gì. Ca dao xưa gom cái ngu gác cu với 3 cái ngu khác (làm mai, gánh nợ, cầm chầu) lại thành một câu lục bát nổi tiếng:

Ở đời có bốn cái ngu:
Làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu
.


http://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%A1c_cu

---------------------------------------
Nghề gác cu

(VietNamnet) - ''Trên đời có bốn cái ngu/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu''. Tiếc thay, cái nghề gác cu được mệnh danh là “ngu” một cách tao nhã của các cụ xưa kia đang dần bị mai một. Đau lòng hơn, nó bị biến tướng thành nghề bẫy cu bằng lưới để mưu sinh.


Một lần “ngu”

Phải lặn lội đến nhà ông lần thứ ba, “ông Chín giựt cu” mới cho phép tôi theo đệ tử của ông mục sở thị cái nghề được dân gian xếp vào hàng tứ ngu này.

Chín giờ sáng, xuống xe lôi sau chặng đường hơn mười cây số anh Phong- đệ tử ông Chín Te dẫn tôi lội bộ hơn ba cây số đường “vườn”. Xách lồng cu qua những vườn trái cây xanh mát, bên mũi là mùi nhãn chín thơm lừng, bên tai là tiếng chim hót ríu ran, anh Phong giải thích cho tôi nghe vì sao ông Chín lại đeo cái nghề này gần ba mươi năm trời không dứt ra được. Cũng một phần do tính cách người miền Tây ưa sự tự do, phóng túng, hồi hộp và lãng mạn nhất trần đời. Cái nghề này vừa vui vừa vất vả, mà cái vất vả ấy khi đã chịu được rồi thì con người lại gắn bó sâu sắc. Cũng một phần bỏ nghề rồi thì biết làm gì để sống? Anh giải thích và triết lý như một cụ già. Còn riêng anh, hai mươi lăm tuổi, dáng lòng khòng, lại có một lý do rất đặc biệt: “ thất tình”, cái số bạc bẽo, vô duyên, như gắn đời làm bạn với cỏ rơm, thả nỗi buồn ngoài đồng ruộng.

Đi hết khu vườn, chúng tôi đến một thửa ruộng nhỏ vừa gặt xong. Sau khi nhắm hướng, chúng tôi xoăn quần lội ra giữa ruộng, nơi anh Phong dự đoán đàn cu sẽ sà xuống để tìm mồi. Anh gác con cu gáy lên cành cây gần cạnh nơi trải lưới, rải rơm rồi đặt hai con cu mồi vào lưới. Một con được thả tự do trong bán kính chừng 5 mét. Một con bị may mắt không cho thấy đường và bị buộc vào hai cánh. Con này sẽ bị giựt dây chớp cánh “kêu gọi” khi có đàn cu rừng nào bay ngang. Thấy đồng loại và mồi, đàn cu rừng sà xuống, lúc ấy, người nấp bên trong sẽ giựt dây, lưới bung lên rồi chụp xuống. Kiểu giựt lưới này có khi bắt được cả đàn, còn thú gác cu đất của các cụ xưa có khi hai ba ngày “lăn lê rình mò” cũng chỉ có một con! Điều này cũng giải thích tại sao bây giờ thanh niên trai tráng ở miệt vườn kiếm sống bằng nghề bẫy lưới cu ngày càng nhiều. Khi đó, các cụ mang nặng nghiệp gác cu xưa thì ngậm ngùi nhìn lứa hậu sinh đang hành hạ, biến tấu cái thú chơi tao nhã đến tội nghiệp. “Nhìn vậy chứ bắt được con chim trời phải cực trần ai khoai củ”. Người gác cu phải ngồi ngoài đồng suốt ngày, chỉ cặm hai ba cành dừa hay đủng đỉnh làm cái “thum” rộng hơn một mét vuông như nhà chòi của trẻ con rồi chui vô ngồi, có khi hứng đủ cái nắng rát da và những cơn mưa lạnh run. Dù thời tiết khắc nghiệt thế nào người đi gác cu cũng không được rời vị trí, mắt luôn theo dõi khi nào cu sà xuống, tai luôn lắng nghe tiếng cu gù, miệng luôn huýt sao và tay thì luôn cầm hai sợi dây sẵn sàng giựt. Chưa kể người gác phải nhịn đói, nhịn khát suốt cả ngày. Mới hơn một tháng trốn cha trốn mẹ theo nghề mà anh chàng Phong đã ốm nhách và đen như gạch nung quá lửa. Nhiều lần dầm nắng rồi lại mắc mưa, Phong cảm sốt suốt ba ngày liền. Phong gọi cái nghề này là nghề “hành xác”. Nhưng đôi ba ngày không đi là buồn không chịu được, lại hành xác, lại xách lồng vác lưới nghêu ngao ra ruộng.

Phong giải thích cái nghề này khổ nhất là sự chờ đợi mà thú nhất cũng là sự đợi chờ. Chờ được con cu sà xuống gần lưới là lòng cứ thấp thỏm, hồi hộp. Hồi hộp chờ đợi cái thành quả khiêu dụ của mình và chờ đợi cảm giác sung sướng của kẻ chinh phục. Cái hay của nghề ở chỗ là phải dụ cho được con cu vào lưới. Thế nhưng, gần sáu tiếng đồng hồ trôi qua, bụng chúng tôi đã nghe cồn cào, miệng khát đắng còn mắt cứ hoa lên vì chờ đợi. Vậy mà vẫn chưa có con cu nào sa lưới. Trời đang nắng như đổ lửa chợt sầm xuống, lắc rắc mưa. Cả ngày hôm ấy phải có đến năm đợt mưa nắng thất thường như thế.

Không giống những người hành nghề để mưu sinh. Anh cũng không bao giờ làm thịt, ăn, cũng như bán con vật này. Trốn cha, trốn mẹ, mượn đồ nghề của thầy Chín đi làm, chiều về lại giao hết số cu bắt được cho thầy. Anh làm cái nghề này chỉ để rửa ráy nỗi buồn.

Gần năm giờ chiều, đang thất vọng vì không có con nào sa lưới thì vẳng lại tiếng cục, cục... Có đôi chim cu đang sà xuống lưới, chỉ chờ có thế, Phong giựt dây cho cánh con cu mồi chớp chớp mời gọi, chờ đôi chim cu sà xuống gần hơn, anh giựt mạnh lưới. Vậy là đôi cu mắc bẫy lúng túng trong lưới.

Rồi có còn tiếng cục...cúc...cu ?

Theo dân địa phương, nguồn gốc nghề gác cu là của người Khơme, vào đầu thế kỷ XX, nghề này được du nhập từ Tịnh Biên (biên giới Việt Nam- Campuchia) sang. Sau đó, nghề gác cu dần được phổ biến trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Khoảng chục năm về trước, hầu như làng nào cũng có người làm nghề này. Đây được xem là một thú chơi tao nhã, một sinh hoạt văn hóa đặc thù của dân miệt vườn. Thú chơi này thường dành cho những người rảnh rang vì với cách gác lục, không dùng lưới, đôi ba ngày, có khi cả tuần mới bẫy được một con. Thường thì con chim cu này được giữ lại làm chim cảnh, có khi nó sống tới hàng chục năm. Cái thú của người xưa là được thả hồn với thiên nhiên, được nghe tiếng hót, tiếng gù. Còn cái tình cảm chăm sóc một con vật đến hàng chục năm thì đủ biết nó gắn bó đến chừng nào.
Con cu mồi

Thế nhưng ngày nay, khi chim cu thành đặc sản trong các nhà hàng thì cái thú chơi gác cu đã biến tướng thành nghề giựt cu bằng lưới. Cũng không kém phần vất vả nhưng vì mưu sinh mà một số người đã phá vỡ một thú chơi, một sinh hoạt văn hóa của người đồng bằng. Nhất là tiếng gáy cục...cúc...cu chỉ vang lên phút chốc rồi bặt để hiến thân cho những món cu nướng, cu chiên, cu rô ti, cu nấu cháo... thơm nhức răng trên bàn nhậu. Mỗi ngày, có đến hàng ngàn con cu đất từ chợ Phụng Hiệp (Cần Thơ) được chuyển đến các nhà hàng đặc sản ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Sáng sớm, đến chợ, nhìn cảnh sôi nổi mua bán những con cu đất- con vật từng được các nghệ nhân xưa xem như bầu bạn mới thấu hiểu hết cái nỗi buồn của các ông từng gác nghề cu lục. Lớp giựt cu hậu sinh bán mỗi con với giá mười ngàn đồng, vào cận Tết, mỗi con được mười lăm ngàn. Theo đó, ông Chín Te cho biết, so với vài năm trước, lượng cu đất ở khu vực này đã ít đi quá nửa. Ông giải thích vì sao phải xin đến năm lần bảy lượt ông mới cho tôi theo anh Phong đi gác cu: “vì tui sợ bị cấm, nghỉ gác cu rồi thì lấy đâu mà đổ vào nồi cơm là một lẽ, còn lẽ khác là tui nhớ nghề lắm, đã thử bỏ nghề vài lần rồi nhưng tui chịu không nổi”. Anh Phong nói rằng ông Chín vẫn luôn canh cánh lo về điều ấy. Nỗi đau lòng của con người làm cái nghề vừa tao nhã vừa sát sinh là vậy! Còn trên bàn nhậu, khi miếng thịt chim cu béo ngậy vừa qua khỏi răng, khi đôi phút được thưởng thức món đặc sản, được vuốt ve cảm giác “sành điệu” mấy ai chợt nghĩ về một thú chơi đặc trưng của người miền Tây đang bị biến dạng. Và mấy ai tự đặt trong đầu dấu hỏi: Mai kia mốt nọ tiếng cục...cúc...cu ngoài đồng có còn không?

Trần Duy


http://vietnamnet.vn/dulieu/2003/10/32920/
-----------------------------


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: "Ở đời có bốn cái ngu..."
Gửi bàiĐã gửi: 12 Tháng 8 2009, 17:34
Ngoại tuyến
Moderator
Moderator

Tuổi: 69
Sinh nhật: 00-00-1955
Ngày tham gia: 21 Tháng 1 2008, 10:01
Bài viết: 218
Quốc gia: Virgin Islands (British) (vg)

Người tạo chủ đề
Phong Vị Quê Hương: Cầm chầu hát bội cúng đình

“Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”

(Ca dao)

Mỗi năm theo lệ, các làng trong miền Nam có tổ chức hai kỳ cúng kỳ yên vào Mùa Xuân và Mùa Thu. Cúng kỳ yên hay còn gọi là cúng cầu an, với ước mong cho dân trong làng được mùa và bình an.

Lễ cúng Mùa Xuân còn gọi là lễ Thượng Ðiền, vào Mùa Thu gọi là lễ Hạ Ðiền. Mỗi làng có ngày cúng đình cố định, làng này làng khác xê xích trước sau vài ngày.

Hát bội cúng đình là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng dân gian của làng xã Ðàng Trong, vùng đất mới, nơi mà cuộc sống tâm linh của con người bất an trước cảnh “sơn lâm chướng khí”. Làng nào cũng thấy có dựng miếu miễu, am, cóc, chùa, để thờ cúng.

Ðình làng với tổ chức hát bội cúng thần là lễ nghi chánh thức của làng, tổ chức rất long trọng và trang nghiêm kéo dài 3 ngày đêm, gây ấn tượng trong tâm tư tình cảm người dân trong làng.

Hát bội cúng đình trong làng thường diễn ra ở nhà võ ca trước đình hoặc nơi sân trống, sân khấu hướng vào cửa đình. Hát đình trước hết là để cúng thần hoàng cùng các bậc tiên hiền-hậu hiền có công khai phá dựng làng; sau đó cho dân trong làng được xem hát.

Thành hoàng có sắc của vua phong, tới ngày cúng làng tổ chức thỉnh sắc thần về đình. Ở Lục Tỉnh xưa rước dắt thần bằng đường thủy. Người ta ghép hai ba ghe thành bè, trên có kiệu màu đỏ sắc thần bên trong được trang trí cờ lộng, bông hoa, tàn lọng, múa lân, có lính theo hầu... rất vui mắt. Ðình nào thuận thì rước sắc thần bằng long xa đi đường bộ cũng đầy đủ nghi thức rất náo nhiệt.

Các nhiều đấng thần linh không tên tuổi, được thờ trong am, miễu dựng trước đường dẫn đến đình. Như Ông Hổ, Ngũ Hành Nương Nương, Bà chúa xứ (thần địa phương), thần Nông, thần Ðất...

Ðình miếu trong miền Nam đặc biệt có thờ cặp hạc và rùa, là con vật vừa thật vừa siêu nhiên mà tới nay chưa có giải thích nào thỏa đáng cả.

“Thương thay thân phận con rùa,
Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia.”

(Ca dao)

Hát bội cúng đình tuồng tích được chọn lựa có nội dung thể hiện qua các nhân vật trung hiếu tiết nghĩa nhằm giáo hóa người dân. Các vở tuồng kinh điển như Lưu Kim Ðính giải giá Thọ Châu, Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ, Tiết Ðinh San cầu Phàn Lê Huê, Sơn Hậu... thường được chọn hát cúng đình.

Trong nghệ thuật cầm chầu, phân biệt hai cách là chầu thường và chầu lễ.

- Cầm chầu thường để nhằm khen thưởng nghệ nhân đào kép hát bội, hát đúng sai, hay dở.

Ông Lê Văn Duyệt thời làm Tổng Trấn Gia Ðịnh được biết là người “cầm chầu” nghiêm khắc có lúc quở phạt bằng cách đánh kép hát sai, hát cương!

Cầm chầu hát bội trong lễ cúng kỳ yên ở đình sau này gọi là cầm chầu lễ, rất khó, nên mới nói “Ở đời có bốn cái ngu/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”.

Thuở đó, Lê Văn Duyệt cầm cái trống lịnh, gọi là “Cổ lịnh” là cái trống nhỏ, có cán, giống như trống trẻ con chơi, trống mà mấy chú Tàu gánh gánh rao nhuộm áo quần ở Chợ Lớn ngày xưa.

Tay trái ông cầm trống, tay mặt cầm dùi, ngồi trên bộ ván gõ, ngồi xếp hai chân qua một bên theo bộ con cọp , nghề võ gọi là bộ hổ. Ông theo dõi hát bội từ câu nói, câu hát đến điệu bộ. Hát hay thì ông đánh trống để khen thưởng. Hát sai, hát cương thì ông gõ dùi trống vào thành trống nghe kêu lắc-cắc để khiển trách.

Nghệ sĩ bị khiển trách thường bị đánh đòn nếu hát bậy, hát phạm thượng, xúc phạm đến vua, quan!

Bởi lẽ hát bội xưa, nay vẫn còn, nhất là các ban hát cúng đình thường hay “hát cương” nghĩa là tuồng tích không đúng, không có ông Nhưng (thầy tuồng). Nghệ sĩ chỉ chú trọng nhiều vào điệu bộ, còn dân chúng phần đông không biết chữ Nho, không đọc truyện Tàu, không hiểu biết cốt truyện. Khán giả bình dân coi hát bội để thưởng thức ca, múa và nhất là xem màu sắc lộng lẫy qua y trang và mặt mũi đào kép.

Lời ca, điệu bộ của hát bội hầu như mang tính ước lệ, khuôn thước áp dụng cho nhiều tính huống... nên nghệ sĩ không quan tâm, quên mất nội dung, làm cho lắm lúc mâu thuẫn. Hát cương là vậy.

Ông Huỳnh Minh trong cuốn “Gia Ðịnh Xưa và Nay” có ghi lại một đoạn hát bội cương như: “Có lần, một kép hát thủ vai thủy thần (thần nước) cầm ngọn roi mà hát khách (điệu Tàu) biểu diễn như đang cỡi cá lý ngư vượt biển xuống Long Cung... Rồi giơ roi như thúc giục, kép hô, họ! họ! như đang giơ roi giục ngựa”

Lúc đó Lê Văn Duyệt đang “cầm chầu” bèn khua tang trống (đánh thành trống) để phạt kép hát sai! Kép hát cương giật mình lanh trí bèn hát tiếp “Tưởng rằng ô mã, nào dè lý ngư”. Do đó Tả quân thích thú khen hay và không phạt.

- Cầm chầu lễ do các chức sự thay mặt làng điều khiển chầu hát.

Chức sự cầm chầu là những người có uy tin, đạo đức và hiểu biết nội dung, bài bản và nghệ thuật hát bội. Người cầm chầu ăn mặc nghiêm chỉnh với áo thụng xanh, khăn như đen, ngồi trước hàng khán giả, gần sân khấu để xem, nhìn thấu tận “cửa sanh” cánh gà bên trái, chỗ đào kép ra; “cửa tử” cánh gà bên phải, chỗ đi vô.

Trống chầu là loại trống to, sơn màu đỏ, căng thẳng, tiếng kêu to để khán giả có thể nghe theo dõi; khác cái trống lịnh, cổ lịnh, thời Lê Văn Duyệt.

Tới giờ hát, chấp sự hai tay cầm hai dùi trống quay mặt hướng về đình “xá thần” và chào khán giả. Quay mặt trở lại sân khấu, ngồi xuống nghiêm trang cầm chầu.

- Khai chầu bằng 9 tiếng trống: 3 chập, mỗi chập 3 tiếng, báo cho đào kép chuẩn bị.

- Mở màn bằng 6 tiếng trống: 2 chập, mỗi chập 3 tiếng. Ðào kép theo thứ tự bước ra ở cữ sanh.

- Chầu khấu, bằng 1 tiếng trống cho đào kép “khấu bái” như chào vua. Trống kèn nổi lên, đào kép lần lượt xưng tên và chào khán giả. Sau đó bước vào cửa tử.

Suốt buổi hát, chấp sự cầm chầu túc trực xem để khen thưởng. Ðánh trên mặt trống là khen, đánh trên bìa trống là chê phạt...

Ðào kép nếu ai hết vai không ra nữa, chấp sự cũng phải biết để đánh hai tiếng trống chầu để giữ lại chào từ biệt khán giả.

Lúc vãn hát, nếu đêm mai còn hát tiếp thì chấp sự đánh 9 tiếng: 3 chập, mỗi chập 3 tiếng như lúc khai chầu. Nếu là đêm chót, ngày mai không còn hát nữa, chấp sự chỉ đánh một chầu 3 tiếng.

Mỗi đêm khi vãn hát, tất cả đào kép phải ra hát có nội dung như chúc thọ vua trước mặt trưởng ban hội tề đại diện cho làng.

Từ thời Gia Long hát bội được dùng như là cách để giáo hóa lòng trung thành của người dân đối với triều đình. Hát bội đặc biệt phát triển ở Lục Tỉnh thời nhà Nguyễn mang ẩn ý đó nên từ Gia Long đến Tự Ðức, sau này Thành Thái vẫn cổ xúy hát bội.

Thời gian sau khi Pháp đánh Nam Kỳ, vua Tự Ðức có chính sách khuyến khích xây đình và ban sắc thần dễ dàng ở Lục Tỉnh.

Nội dung hát bội ảnh hưởng đến truyện thơ, vè, tuồng tích cải lương... như là một phần của văn hóa đời sống sau này của người Lục Tỉnh.

Hát bội với nội dung cùng nghi thức cầm chầu trong các lễ cúng đình rất phức tạp. Cầm chầu như vậy là một nghệ thuật cao khiến nhiều người đam mê! Một nhà Nho ở Bình Ðịnh là Nguyễn Dật có bài thơ “Cầm Chầu” rằng:

“Ông cha thuở trước tội gì đâu,
Con cháu sanh ra muốn đánh chầu,
Nghỉnh mặt lì lì ngồi phản ngựa,
Hươ tay lia lịa đập da trâu...”


Nên sự đam mê của người cầm chầu trở thành một trong bốn cái ngu của con người ta là vậy!

Trần Văn Chi


http://www.vietmaisau.org/forum/archive ... 41522.html
-----------------------------------------------------------------------------------------
Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất trong năm của một ngôi đình thần ở Nam Bộ, Việt Nam.

Tùy theo điều kiện kinh tế, nhưng thường thì cứ ba năm Ban quý tế đình làm lễ tế long trọng và qui mô (tam niên đáo lệ kỳ yên) hơn, tức ngoài các lễ tế thường kỳ còn có thêm 4 lễ nữa, đó là: Lễ rước Tổ hát bội, lễ Xây chầu, Hát chầu và Hồi chầu.

Sơ lược các lễ tế

Giới thiệu lễ Kỳ yên ở Nam Bộ xưa, sách Gia Định thành thông chí (mục phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn:

Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về...[1]

Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiểu lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và lễ tế Tiền hiền, hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc và chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau:

Ngày thứ nhất

Có các lễ tế:

Lễ rước Tổ hát bội

Đến kỳ đáo lệ Kỳ yên, ngay từ sáng sớm, Ban quí tế cử người bưng một khai gỗ có trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng 4 quân hầu cầm 4 món thuộc bộ Lỗ bộ và ban nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đình, rồi đặt trang trọng sau hậu trường võ ca.

Lễ Thỉnh sắc

Sau khi an vị Tổ hát bội xong, một đám rước với đầy đủ chiêng, trống, cờ, lộng, long đình cùng đội nhạc lễ, đội lân...đi đến chỗ cất giữ sắc thần (thường thì để ở nhà một vị chức sắc có uy tín). Đến nơi, người có trách nhiệm vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hay khấn cũng được), rồi đem sắc đặt vào long đình, rước về. Đến đình, phải cử hành thêm nghi thức an vị, gồm: một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi mới đưa tráp đựng sắc phong để trên bàn thờ thần nơi chính điện.

Lễ này, Đình Châu Phú (An Giang) tiến hành vào 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Vào lúc ấy, một đoàn xe được trang hoàng đẹp đẽ chạy đến Nhà lớn cũng ở gần đó, làm lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình.

Lễ Nghinh

Một số làng, sau lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng còn tổ chức lễ Nghinh, tức đưa kiệu đến các đền miếu trong làng, dâng hương, khấn cung thỉnh mời chư vị thần về đình dự lễ. Xong, đem lư hương của các vị thần này đặt lên kiệu trở về, đặt trên bàn hương án bày ở ngoài đình, hoặc trên bàn Hội đồng ngoại ở bên trong đình.

Ở Đình Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình; tiếp theo là lễ nghinh, tức lễ thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu), và sắc thần của hai ông là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh.

Tụng kinh cầu an

Có một số đình có phần lễ này. Đây vốn là nghi thức của Phật giáo hội nhập vào đình miếu, mục đích cầu chư Phật, thần thánh ban cho dân làng sự an lành. Khởi đầu cử người thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, rồi tiến hành niệm hương tán Phật, tụng kinh Phổ môn; cuối cùng đọc sớ rồi đốt sớ gửi cho chư Phật và Ngọc Hoàng Thượng đế.

Ngày thứ hai & thứ ba

Có các lễ tế:

Lễ Túc yết

Tức là lễ hương chức ra ra mắt thần. Theo cổ lệ mà sách Gia Định thành thông chí đã biên chép, thì lễ này được tiến hành vào buổi chiều cho đến hết đêm ngày thứ nhất. Nhưng giờ đây, tùy theo điều kiện của mỗi đình, mà giờ giấc có thay đổi đôi chút.

Theo sách Sổ tay hành hương đất phương Nam thì, sắp đến giờ hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, khăn đóng, mang giày đứng sắp hàng hai bên võ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (đào chuyên hát chúc tụng) trong tư thế sẳn sàng. Rồi một lễ sinh bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức được phân công tuần tự thực hiện những nghi thức như sau:

* Củ sát tế phẩm: kiểm lại đồ cúng.
* Tuần hương: dâng hương.
* Tuần rượu thứ nhất: dâng rượu lần nhất.
* Đọc văn tế chữ Hán: cầu nguyện thần Thành hoàng phù trợ sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,...
* Tuần rượu thứ hai: dâng rượu lần hai.
* Tuần rượu thứ ba: dâng rượu lần ba.
* Hiến quả phẩm :dâng trái cây.
* Hiến bỉnh: dâng bánh.
* Tuần trà : dâng trà
* Ẩm phước: giống như lễ “thụ tộ” miền Bắc, tức Ban tế tự được thừa hưởng lễ vật đã dâng cúng, xem như đây như là lộc của thần ban.
* Hóa văn tế: có nghĩa đốt văn tế. Có đình giữ đến xong lễ đoàn cả mới đốt.

Lược kể diễn biến lễ Túc yết ở Đình Châu Phú:

Đúng một giờ đêm ngày 11 tháng Năm âm lịch (tức ngày thứ hai của đại lễ) Ban quản trị đình đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông Chánh tế - cũng là trưởng ban quản trị đình. Lễ vật chính dâng cúng trong buổi lễ Túc yết gồm có một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo [2], một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.

Bắt đầu vào lễ, ông Chánh tế đến dâng hương trước bàn thờ, rồi lần lượt các thành viên trong Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "Khởi chinh cổ", sau khi đánh ba hồi trống gỗ và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu.. .Sau cùng, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Người được cử quỳ xuống "đọc văn", trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc phụ họa. Dứt bài văn tế, ông Chánh tế đốt bản văn này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đã xong.

Lễ Tỉnh sanh và lễ Đàn cả

Theo nhà văn Sơn Nam thì lễ đàn Cả là quan trọng nhất. Ông viết:...trước đó có lệ Túc yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc yết cho bớt kinh phí...Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi: Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chợ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, trong cả nưóc, nghi thức nhau nhưng "đại đồng tiểu dị”.[4]

Lễ Tỉnh sanh thường diễn ra lúc 0 giờ (tức giờ Tý), với vật tế là một con heo còn sống, toàn sắc, bị cột bốn chân, đặt trên một chiếc ghế ngựa ngay trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch hứng máu cùng một nhúm lông của con vật này, đặt lên bàn hương án.

Có nơi, như ở Đình Châu Phú dâng cúng một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo (gọi chung là "mao huyết"), một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.

Ngay sau lễ Tỉnh sanh là lễ Đàn cả[5]. Cổ lệ chọn giờ này (giờ Tý) bắt nguồn từ quan niệm dịch lý: đây là giờ “âm lão, dương khởi”, tức là mọi điều tốt lành bắt đầu nảy sinh. Việc hành lễ tương tự như lễ túc yết, duy chỉ khác câu ở phần ẩm phước: lễ túc yết xướng: Nghinh thần cúc cung bái, thì ở lễ này xướng câu: Tạ thần cung cung bái.

Lễ Chánh tế

Cũng theo sách Gia Định thành thông chí, thì lễ Chánh tế được tổ chức vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ yên, với phần nghi thức giống như lễ Túc yết. Ở Đình Châu Phú, lễ này được cử hành lúc vào 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của cuộc lễ.

Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền

Đây là lễ tế các vị tiền nhân đã có công lập làng, lập đình; và các anh hùng liệt sĩ địa phương. Có đình tiến hành lễ này ngay sau khi lễ đoàn cả xong, nhưng cũng có đình để sang ngày thứ ba. Điều đặc biệt trong lễ này là cử nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, nhưng hoàn toàn mang hơi Ai; khác với lễ Túc yết và lễ đoàn cả đều hoàn toàn mang hơi xuân.

Lễ Xây chầu

Bài chính: Lễ Xây chầu

Theo Sơn Nam, nét đặc trưng của đình miếu Nam Bộ xưa là mỗi lần có lễ Kỳ yên, thì phải có lễ Xây chầu, Đại bội và hát bội. Căn cứ vào lời chúc tụng, thì lễ Xây chầu có từ đời vua Gia Long.

Thường thì lễ này được cử hành sau lễ tế Đàn cả. Về cách thức xây chầu, đại để chia làm ba loại: Xây chầu văn, Xây chầu võ, và Xây chầu bán văn bán võ. Lễ này bắt nguồn từ quan niệm dịch lý của đạo Nho: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và hòa đạo người (nhân nghĩa); ba đạo này có hòa hợp thì vạn vật mới hanh thông, tốt đẹp.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì lễ Xây chầu vốn bắt nguồn từ lễ Đại Bội trong cung đình nhà Nguyễn. Đây là một cảnh diễn lớn, gồm nhiều tiết mục liên hoàn nhằm thể hiện sự sinh thành vũ trụ và phát triển của vạn hữu[6]. Bởi vậy, theo Sơn Nam, Muốn ổn định thời tiết, trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ nam là Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành. Việc Xây chầu chính là để nhắc nhở nguyên tắc ấy.

Trích diễn biến lễ xây chầu ở Đình Châu Phú:

Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. Những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội đã hóa trang, trống mõ sẵn sàng. Ông Chánh bái chủ trì lễ nhúng một cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện:

Nhất sái thiên thanh. (Trời thêm thanh bình)
Nhị sái địa linh (Đất thêm tươi tốt)
Tam sái nhơn trường (Người được sống lâu)
Tứ sái quỷ diệt hình (quỷ dữ bị tiêu diệt).


Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: "Ca công - tiếp hát", lập tức trống mõ của đoàn hát bội rộ lên và chương trình hát bội được bắt đầu.[7]Đến khi ấy, trống chầu được đặt dưới sân khấu, và cử quan viên ra cầm chầu gọi là cầm chầu đại bội để khen chê nghệ sĩ.

Hát chầu

Bài chính: Hát chầu

Thường thì cứ ba năm một lần (đáo lệ Kỳ yên), Ban tế tự đình thuê một gánh hát bội về trình diễn gọi là hát chầu, trước để cúng thần (chức năng chính), sau để giúp vui cho dân làng. Tuồng diễn (thường là 3, 4 tuồng) đều phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy phạm chính thống. Điều này thể hiện rõ trong hầu hết mọi nghi thức, nhất là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vỡ diễn đều phải biểu hiện cho được ý nghĩa: trung thắng nịnh, chính thắng tà và kết thúc bằng một màn tôn chân chúa (tôn vương) hay tôn soái.

Tuồng hát bội mà các đình thường chọn hát là San Hậu (tôn vương), Phàm Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quí (tôn soái)…Ở Đình Châu Phú các tuồng được chọn hát thường là: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San hậu...

Lễ hồi chầu

Được cử hành sau khi khi tôn vương hay tôn soái. Lễ này có ý nghĩa là trình với thần rằng các buổi hát đã kết thúc.

Lễ hồi sắc hay nối sắc

Tức đưa sắc thần về nơi cũ. Nghi thức lễ diễn ra tương tự như khi thỉnh. Sau lễ này, các lư hương của chư thần trong lễ Nghinh cũng hoàn về nơi thờ phụng họ.

Nhận xét

Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới”, nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.

Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.


http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85 ... 3_y%C3%AAn
-----------------------------------------------------------------------------------------------
Nguyen Tan lò mò tìm ra được mấy bài như vậy.
Bà con có ai biết gì thêm về những vấn đề trên, xin vui lòng chỉ giáo cho.
Trân trọng cám ơn trước.


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: "Ở đời có bốn cái ngu..."
Gửi bàiĐã gửi: 28 Tháng 8 2009, 08:35
Ngoại tuyến
Super Member
Super Member

Tuổi: 52
Sinh nhật: 05-09-1972
Ngày tham gia: 22 Tháng 7 2008, 07:30
Bài viết: 1164
Quốc gia: Vietnam (vn)
Trong bốn cái ngu đó tui chưa có cái nào, mà ngu khác ngoài bốn ngu đó thì tui nhiều vô kể :( Cái ngu "gác cu" thì tui chỉ biết con cu đất bị bằm nhuyển không nhìn ra hình dáng trong nồi cháo nhậu ở quán thì làm sao biết mặt mủi chim cu ra sao mà bẩy với gác?. Còn cầm chầu thì tui bù trất, vả lại tui chỉ có coi phim Titanic hay phim cấp ba gì gì đại loại như vậy thì làm sao biết cầm chầu mần răng? Còn gánh nợ thì tui mượn người còn chưa ai cho mượn thì lấy gì mà gánh với gồng? Có chăng thì làm mai nếu có củng chịu tiếng ngu để hy vọng được cái đầu heo nấu cháo nhưng tới giờ chưa có ai nhờ hết, mà có ai nhờ thì cứ đưa đầu heo trước rồi tui dắt ra ...quán làm mai cho một em.


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Hiển thị những bài viết cách đây: Sắp xếp theo
Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 3 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]

» "Ở đời có bốn cái ngu..." «


Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 0 khách


Bạn không thể tạo chủ đề mới trong chuyên mục này
Bạn không thể trả lời bài viết trong chuyên mục này
Bạn không thể sửa những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể xoá những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể gửi tập tin đính kèm trong chuyên mục này

Tìm kiếm với từ khoá:
Chuyển đến:

Ai đang trực tuyến?

Ai đang trực tuyến? Trong tổng số 0 người đang trực tuyến: không có thành viên, không có thành viên ẩn và không có vị khách nào
Số lượt người ghé thăm website đông nhất là 304 vào ngày 24 Tháng 11 2024, 12:29

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 0 khách

Thông tin trên được cập nhật trong vòng 5 phút vừa qua
cron
Powered by phpBBVietNam © 2006 - 2007 phpBBVietNam Group based on phpBB
Vietnamese translation by nedka
Founded by tranbc | Content © Trường Trung Học Công Lập Tân Châu