|
Moderator |
|
Tuổi: 69 Sinh nhật: 00-00-1955 Ngày tham gia: 21 Tháng 1 2008, 10:01 Bài viết: 218 Quốc gia:
|
Phong Vị Quê Hương: Cầm chầu hát bội cúng đình“Ở đời có bốn cái ngu, Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu” (Ca dao)
Mỗi năm theo lệ, các làng trong miền Nam có tổ chức hai kỳ cúng kỳ yên vào Mùa Xuân và Mùa Thu. Cúng kỳ yên hay còn gọi là cúng cầu an, với ước mong cho dân trong làng được mùa và bình an.
Lễ cúng Mùa Xuân còn gọi là lễ Thượng Ðiền, vào Mùa Thu gọi là lễ Hạ Ðiền. Mỗi làng có ngày cúng đình cố định, làng này làng khác xê xích trước sau vài ngày.
Hát bội cúng đình là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng dân gian của làng xã Ðàng Trong, vùng đất mới, nơi mà cuộc sống tâm linh của con người bất an trước cảnh “sơn lâm chướng khí”. Làng nào cũng thấy có dựng miếu miễu, am, cóc, chùa, để thờ cúng.
Ðình làng với tổ chức hát bội cúng thần là lễ nghi chánh thức của làng, tổ chức rất long trọng và trang nghiêm kéo dài 3 ngày đêm, gây ấn tượng trong tâm tư tình cảm người dân trong làng.
Hát bội cúng đình trong làng thường diễn ra ở nhà võ ca trước đình hoặc nơi sân trống, sân khấu hướng vào cửa đình. Hát đình trước hết là để cúng thần hoàng cùng các bậc tiên hiền-hậu hiền có công khai phá dựng làng; sau đó cho dân trong làng được xem hát.
Thành hoàng có sắc của vua phong, tới ngày cúng làng tổ chức thỉnh sắc thần về đình. Ở Lục Tỉnh xưa rước dắt thần bằng đường thủy. Người ta ghép hai ba ghe thành bè, trên có kiệu màu đỏ sắc thần bên trong được trang trí cờ lộng, bông hoa, tàn lọng, múa lân, có lính theo hầu... rất vui mắt. Ðình nào thuận thì rước sắc thần bằng long xa đi đường bộ cũng đầy đủ nghi thức rất náo nhiệt.
Các nhiều đấng thần linh không tên tuổi, được thờ trong am, miễu dựng trước đường dẫn đến đình. Như Ông Hổ, Ngũ Hành Nương Nương, Bà chúa xứ (thần địa phương), thần Nông, thần Ðất...
Ðình miếu trong miền Nam đặc biệt có thờ cặp hạc và rùa, là con vật vừa thật vừa siêu nhiên mà tới nay chưa có giải thích nào thỏa đáng cả.
“Thương thay thân phận con rùa, Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia.” (Ca dao)
Hát bội cúng đình tuồng tích được chọn lựa có nội dung thể hiện qua các nhân vật trung hiếu tiết nghĩa nhằm giáo hóa người dân. Các vở tuồng kinh điển như Lưu Kim Ðính giải giá Thọ Châu, Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ, Tiết Ðinh San cầu Phàn Lê Huê, Sơn Hậu... thường được chọn hát cúng đình.
Trong nghệ thuật cầm chầu, phân biệt hai cách là chầu thường và chầu lễ.
- Cầm chầu thường để nhằm khen thưởng nghệ nhân đào kép hát bội, hát đúng sai, hay dở.
Ông Lê Văn Duyệt thời làm Tổng Trấn Gia Ðịnh được biết là người “cầm chầu” nghiêm khắc có lúc quở phạt bằng cách đánh kép hát sai, hát cương!
Cầm chầu hát bội trong lễ cúng kỳ yên ở đình sau này gọi là cầm chầu lễ, rất khó, nên mới nói “Ở đời có bốn cái ngu/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”.
Thuở đó, Lê Văn Duyệt cầm cái trống lịnh, gọi là “Cổ lịnh” là cái trống nhỏ, có cán, giống như trống trẻ con chơi, trống mà mấy chú Tàu gánh gánh rao nhuộm áo quần ở Chợ Lớn ngày xưa.
Tay trái ông cầm trống, tay mặt cầm dùi, ngồi trên bộ ván gõ, ngồi xếp hai chân qua một bên theo bộ con cọp , nghề võ gọi là bộ hổ. Ông theo dõi hát bội từ câu nói, câu hát đến điệu bộ. Hát hay thì ông đánh trống để khen thưởng. Hát sai, hát cương thì ông gõ dùi trống vào thành trống nghe kêu lắc-cắc để khiển trách.
Nghệ sĩ bị khiển trách thường bị đánh đòn nếu hát bậy, hát phạm thượng, xúc phạm đến vua, quan!
Bởi lẽ hát bội xưa, nay vẫn còn, nhất là các ban hát cúng đình thường hay “hát cương” nghĩa là tuồng tích không đúng, không có ông Nhưng (thầy tuồng). Nghệ sĩ chỉ chú trọng nhiều vào điệu bộ, còn dân chúng phần đông không biết chữ Nho, không đọc truyện Tàu, không hiểu biết cốt truyện. Khán giả bình dân coi hát bội để thưởng thức ca, múa và nhất là xem màu sắc lộng lẫy qua y trang và mặt mũi đào kép.
Lời ca, điệu bộ của hát bội hầu như mang tính ước lệ, khuôn thước áp dụng cho nhiều tính huống... nên nghệ sĩ không quan tâm, quên mất nội dung, làm cho lắm lúc mâu thuẫn. Hát cương là vậy.
Ông Huỳnh Minh trong cuốn “Gia Ðịnh Xưa và Nay” có ghi lại một đoạn hát bội cương như: “Có lần, một kép hát thủ vai thủy thần (thần nước) cầm ngọn roi mà hát khách (điệu Tàu) biểu diễn như đang cỡi cá lý ngư vượt biển xuống Long Cung... Rồi giơ roi như thúc giục, kép hô, họ! họ! như đang giơ roi giục ngựa”
Lúc đó Lê Văn Duyệt đang “cầm chầu” bèn khua tang trống (đánh thành trống) để phạt kép hát sai! Kép hát cương giật mình lanh trí bèn hát tiếp “Tưởng rằng ô mã, nào dè lý ngư”. Do đó Tả quân thích thú khen hay và không phạt.
- Cầm chầu lễ do các chức sự thay mặt làng điều khiển chầu hát.
Chức sự cầm chầu là những người có uy tin, đạo đức và hiểu biết nội dung, bài bản và nghệ thuật hát bội. Người cầm chầu ăn mặc nghiêm chỉnh với áo thụng xanh, khăn như đen, ngồi trước hàng khán giả, gần sân khấu để xem, nhìn thấu tận “cửa sanh” cánh gà bên trái, chỗ đào kép ra; “cửa tử” cánh gà bên phải, chỗ đi vô.
Trống chầu là loại trống to, sơn màu đỏ, căng thẳng, tiếng kêu to để khán giả có thể nghe theo dõi; khác cái trống lịnh, cổ lịnh, thời Lê Văn Duyệt.
Tới giờ hát, chấp sự hai tay cầm hai dùi trống quay mặt hướng về đình “xá thần” và chào khán giả. Quay mặt trở lại sân khấu, ngồi xuống nghiêm trang cầm chầu.
- Khai chầu bằng 9 tiếng trống: 3 chập, mỗi chập 3 tiếng, báo cho đào kép chuẩn bị.
- Mở màn bằng 6 tiếng trống: 2 chập, mỗi chập 3 tiếng. Ðào kép theo thứ tự bước ra ở cữ sanh.
- Chầu khấu, bằng 1 tiếng trống cho đào kép “khấu bái” như chào vua. Trống kèn nổi lên, đào kép lần lượt xưng tên và chào khán giả. Sau đó bước vào cửa tử.
Suốt buổi hát, chấp sự cầm chầu túc trực xem để khen thưởng. Ðánh trên mặt trống là khen, đánh trên bìa trống là chê phạt...
Ðào kép nếu ai hết vai không ra nữa, chấp sự cũng phải biết để đánh hai tiếng trống chầu để giữ lại chào từ biệt khán giả.
Lúc vãn hát, nếu đêm mai còn hát tiếp thì chấp sự đánh 9 tiếng: 3 chập, mỗi chập 3 tiếng như lúc khai chầu. Nếu là đêm chót, ngày mai không còn hát nữa, chấp sự chỉ đánh một chầu 3 tiếng.
Mỗi đêm khi vãn hát, tất cả đào kép phải ra hát có nội dung như chúc thọ vua trước mặt trưởng ban hội tề đại diện cho làng.
Từ thời Gia Long hát bội được dùng như là cách để giáo hóa lòng trung thành của người dân đối với triều đình. Hát bội đặc biệt phát triển ở Lục Tỉnh thời nhà Nguyễn mang ẩn ý đó nên từ Gia Long đến Tự Ðức, sau này Thành Thái vẫn cổ xúy hát bội.
Thời gian sau khi Pháp đánh Nam Kỳ, vua Tự Ðức có chính sách khuyến khích xây đình và ban sắc thần dễ dàng ở Lục Tỉnh.
Nội dung hát bội ảnh hưởng đến truyện thơ, vè, tuồng tích cải lương... như là một phần của văn hóa đời sống sau này của người Lục Tỉnh.
Hát bội với nội dung cùng nghi thức cầm chầu trong các lễ cúng đình rất phức tạp. Cầm chầu như vậy là một nghệ thuật cao khiến nhiều người đam mê! Một nhà Nho ở Bình Ðịnh là Nguyễn Dật có bài thơ “Cầm Chầu” rằng:
“Ông cha thuở trước tội gì đâu, Con cháu sanh ra muốn đánh chầu, Nghỉnh mặt lì lì ngồi phản ngựa, Hươ tay lia lịa đập da trâu...”
Nên sự đam mê của người cầm chầu trở thành một trong bốn cái ngu của con người ta là vậy!
Trần Văn Chihttp://www.vietmaisau.org/forum/archive ... 41522.html----------------------------------------------------------------------------------------- Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất trong năm của một ngôi đình thần ở Nam Bộ, Việt Nam.
Tùy theo điều kiện kinh tế, nhưng thường thì cứ ba năm Ban quý tế đình làm lễ tế long trọng và qui mô (tam niên đáo lệ kỳ yên) hơn, tức ngoài các lễ tế thường kỳ còn có thêm 4 lễ nữa, đó là: Lễ rước Tổ hát bội, lễ Xây chầu, Hát chầu và Hồi chầu.
Sơ lược các lễ tế
Giới thiệu lễ Kỳ yên ở Nam Bộ xưa, sách Gia Định thành thông chí (mục phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn:
Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về...[1]
Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiểu lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và lễ tế Tiền hiền, hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc và chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau:
Ngày thứ nhất
Có các lễ tế:
Lễ rước Tổ hát bội
Đến kỳ đáo lệ Kỳ yên, ngay từ sáng sớm, Ban quí tế cử người bưng một khai gỗ có trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng 4 quân hầu cầm 4 món thuộc bộ Lỗ bộ và ban nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đình, rồi đặt trang trọng sau hậu trường võ ca.
Lễ Thỉnh sắc
Sau khi an vị Tổ hát bội xong, một đám rước với đầy đủ chiêng, trống, cờ, lộng, long đình cùng đội nhạc lễ, đội lân...đi đến chỗ cất giữ sắc thần (thường thì để ở nhà một vị chức sắc có uy tín). Đến nơi, người có trách nhiệm vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hay khấn cũng được), rồi đem sắc đặt vào long đình, rước về. Đến đình, phải cử hành thêm nghi thức an vị, gồm: một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi mới đưa tráp đựng sắc phong để trên bàn thờ thần nơi chính điện.
Lễ này, Đình Châu Phú (An Giang) tiến hành vào 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Vào lúc ấy, một đoàn xe được trang hoàng đẹp đẽ chạy đến Nhà lớn cũng ở gần đó, làm lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình.
Lễ Nghinh
Một số làng, sau lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng còn tổ chức lễ Nghinh, tức đưa kiệu đến các đền miếu trong làng, dâng hương, khấn cung thỉnh mời chư vị thần về đình dự lễ. Xong, đem lư hương của các vị thần này đặt lên kiệu trở về, đặt trên bàn hương án bày ở ngoài đình, hoặc trên bàn Hội đồng ngoại ở bên trong đình.
Ở Đình Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình; tiếp theo là lễ nghinh, tức lễ thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu), và sắc thần của hai ông là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh.
Tụng kinh cầu an
Có một số đình có phần lễ này. Đây vốn là nghi thức của Phật giáo hội nhập vào đình miếu, mục đích cầu chư Phật, thần thánh ban cho dân làng sự an lành. Khởi đầu cử người thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, rồi tiến hành niệm hương tán Phật, tụng kinh Phổ môn; cuối cùng đọc sớ rồi đốt sớ gửi cho chư Phật và Ngọc Hoàng Thượng đế.
Ngày thứ hai & thứ ba
Có các lễ tế:
Lễ Túc yết
Tức là lễ hương chức ra ra mắt thần. Theo cổ lệ mà sách Gia Định thành thông chí đã biên chép, thì lễ này được tiến hành vào buổi chiều cho đến hết đêm ngày thứ nhất. Nhưng giờ đây, tùy theo điều kiện của mỗi đình, mà giờ giấc có thay đổi đôi chút.
Theo sách Sổ tay hành hương đất phương Nam thì, sắp đến giờ hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, khăn đóng, mang giày đứng sắp hàng hai bên võ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (đào chuyên hát chúc tụng) trong tư thế sẳn sàng. Rồi một lễ sinh bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức được phân công tuần tự thực hiện những nghi thức như sau:
* Củ sát tế phẩm: kiểm lại đồ cúng. * Tuần hương: dâng hương. * Tuần rượu thứ nhất: dâng rượu lần nhất. * Đọc văn tế chữ Hán: cầu nguyện thần Thành hoàng phù trợ sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,... * Tuần rượu thứ hai: dâng rượu lần hai. * Tuần rượu thứ ba: dâng rượu lần ba. * Hiến quả phẩm :dâng trái cây. * Hiến bỉnh: dâng bánh. * Tuần trà : dâng trà * Ẩm phước: giống như lễ “thụ tộ” miền Bắc, tức Ban tế tự được thừa hưởng lễ vật đã dâng cúng, xem như đây như là lộc của thần ban. * Hóa văn tế: có nghĩa đốt văn tế. Có đình giữ đến xong lễ đoàn cả mới đốt.
Lược kể diễn biến lễ Túc yết ở Đình Châu Phú:
Đúng một giờ đêm ngày 11 tháng Năm âm lịch (tức ngày thứ hai của đại lễ) Ban quản trị đình đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông Chánh tế - cũng là trưởng ban quản trị đình. Lễ vật chính dâng cúng trong buổi lễ Túc yết gồm có một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo [2], một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.
Bắt đầu vào lễ, ông Chánh tế đến dâng hương trước bàn thờ, rồi lần lượt các thành viên trong Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "Khởi chinh cổ", sau khi đánh ba hồi trống gỗ và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu.. .Sau cùng, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Người được cử quỳ xuống "đọc văn", trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc phụ họa. Dứt bài văn tế, ông Chánh tế đốt bản văn này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đã xong.
Lễ Tỉnh sanh và lễ Đàn cả
Theo nhà văn Sơn Nam thì lễ đàn Cả là quan trọng nhất. Ông viết:...trước đó có lệ Túc yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc yết cho bớt kinh phí...Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi: Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chợ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, trong cả nưóc, nghi thức nhau nhưng "đại đồng tiểu dị”.[4]
Lễ Tỉnh sanh thường diễn ra lúc 0 giờ (tức giờ Tý), với vật tế là một con heo còn sống, toàn sắc, bị cột bốn chân, đặt trên một chiếc ghế ngựa ngay trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch hứng máu cùng một nhúm lông của con vật này, đặt lên bàn hương án.
Có nơi, như ở Đình Châu Phú dâng cúng một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo (gọi chung là "mao huyết"), một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.
Ngay sau lễ Tỉnh sanh là lễ Đàn cả[5]. Cổ lệ chọn giờ này (giờ Tý) bắt nguồn từ quan niệm dịch lý: đây là giờ “âm lão, dương khởi”, tức là mọi điều tốt lành bắt đầu nảy sinh. Việc hành lễ tương tự như lễ túc yết, duy chỉ khác câu ở phần ẩm phước: lễ túc yết xướng: Nghinh thần cúc cung bái, thì ở lễ này xướng câu: Tạ thần cung cung bái.
Lễ Chánh tế
Cũng theo sách Gia Định thành thông chí, thì lễ Chánh tế được tổ chức vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ yên, với phần nghi thức giống như lễ Túc yết. Ở Đình Châu Phú, lễ này được cử hành lúc vào 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của cuộc lễ.
Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền
Đây là lễ tế các vị tiền nhân đã có công lập làng, lập đình; và các anh hùng liệt sĩ địa phương. Có đình tiến hành lễ này ngay sau khi lễ đoàn cả xong, nhưng cũng có đình để sang ngày thứ ba. Điều đặc biệt trong lễ này là cử nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, nhưng hoàn toàn mang hơi Ai; khác với lễ Túc yết và lễ đoàn cả đều hoàn toàn mang hơi xuân.
Lễ Xây chầu
Bài chính: Lễ Xây chầu
Theo Sơn Nam, nét đặc trưng của đình miếu Nam Bộ xưa là mỗi lần có lễ Kỳ yên, thì phải có lễ Xây chầu, Đại bội và hát bội. Căn cứ vào lời chúc tụng, thì lễ Xây chầu có từ đời vua Gia Long.
Thường thì lễ này được cử hành sau lễ tế Đàn cả. Về cách thức xây chầu, đại để chia làm ba loại: Xây chầu văn, Xây chầu võ, và Xây chầu bán văn bán võ. Lễ này bắt nguồn từ quan niệm dịch lý của đạo Nho: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và hòa đạo người (nhân nghĩa); ba đạo này có hòa hợp thì vạn vật mới hanh thông, tốt đẹp.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì lễ Xây chầu vốn bắt nguồn từ lễ Đại Bội trong cung đình nhà Nguyễn. Đây là một cảnh diễn lớn, gồm nhiều tiết mục liên hoàn nhằm thể hiện sự sinh thành vũ trụ và phát triển của vạn hữu[6]. Bởi vậy, theo Sơn Nam, Muốn ổn định thời tiết, trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ nam là Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành. Việc Xây chầu chính là để nhắc nhở nguyên tắc ấy.
Trích diễn biến lễ xây chầu ở Đình Châu Phú:
Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. Những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội đã hóa trang, trống mõ sẵn sàng. Ông Chánh bái chủ trì lễ nhúng một cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện:
Nhất sái thiên thanh. (Trời thêm thanh bình) Nhị sái địa linh (Đất thêm tươi tốt) Tam sái nhơn trường (Người được sống lâu) Tứ sái quỷ diệt hình (quỷ dữ bị tiêu diệt).
Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: "Ca công - tiếp hát", lập tức trống mõ của đoàn hát bội rộ lên và chương trình hát bội được bắt đầu.[7]Đến khi ấy, trống chầu được đặt dưới sân khấu, và cử quan viên ra cầm chầu gọi là cầm chầu đại bội để khen chê nghệ sĩ.
Hát chầu
Bài chính: Hát chầu
Thường thì cứ ba năm một lần (đáo lệ Kỳ yên), Ban tế tự đình thuê một gánh hát bội về trình diễn gọi là hát chầu, trước để cúng thần (chức năng chính), sau để giúp vui cho dân làng. Tuồng diễn (thường là 3, 4 tuồng) đều phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy phạm chính thống. Điều này thể hiện rõ trong hầu hết mọi nghi thức, nhất là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vỡ diễn đều phải biểu hiện cho được ý nghĩa: trung thắng nịnh, chính thắng tà và kết thúc bằng một màn tôn chân chúa (tôn vương) hay tôn soái.
Tuồng hát bội mà các đình thường chọn hát là San Hậu (tôn vương), Phàm Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quí (tôn soái)…Ở Đình Châu Phú các tuồng được chọn hát thường là: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San hậu...
Lễ hồi chầu
Được cử hành sau khi khi tôn vương hay tôn soái. Lễ này có ý nghĩa là trình với thần rằng các buổi hát đã kết thúc.
Lễ hồi sắc hay nối sắc
Tức đưa sắc thần về nơi cũ. Nghi thức lễ diễn ra tương tự như khi thỉnh. Sau lễ này, các lư hương của chư thần trong lễ Nghinh cũng hoàn về nơi thờ phụng họ.
Nhận xét
Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới”, nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.
Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển. http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85 ... 3_y%C3%AAn----------------------------------------------------------------------------------------------- Nguyen Tan lò mò tìm ra được mấy bài như vậy. Bà con có ai biết gì thêm về những vấn đề trên, xin vui lòng chỉ giáo cho. Trân trọng cám ơn trước.
|
|