Bạn chưa có tài khoản? Hãy bấm vào đây để đăng ký làm thành viên của chúng tôi!
Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Trường Trung Học Công Lập Tân Châu

Bay Về Tổ Ấm
Hôm nay, 01 Tháng 10 2024, 04:30
Thời gian được tính theo giờ UTC - 4 Giờ [ Giờ DST ]

Đăng nhập

Tên thành viên: Mật khẩu: Đăng nhập tự động mỗi lần ghé thăm Ẩn trạng thái trực tuyến của tôi trong phiên đăng nhập này


Trung Học Tân Châu


» Bí ẩn tiếng Việt: âm ÚT, UN, ÉT, ẸT, EN, ỨC - ỐI «




Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 4 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]
Người gửi Nội dung (Xem: 970 | Trả lời: 3)
Tiêu đề bài viết: Bí ẩn tiếng Việt: âm ÚT, UN, ÉT, ẸT, EN, ỨC - ỐI
Gửi bàiĐã gửi: 03 Tháng 11 2009, 00:19
Ngoại tuyến
Member II
Member II

Tuổi: 70
Sinh nhật: 01-12-1953
Ngày tham gia: 03 Tháng 12 2007, 05:30
Bài viết: 77
Quốc gia: Vietnam (vn)

Người tạo chủ đề
Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ “đút” trong một câu văn không có gì đặc biệt: “Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần...” Từ chữ “đút” ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ “rút”: cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).

Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: “-ÚT”. Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm “đ-” (đút) và một chữ bằng phụ âm “r- ” (rút).

Hơn nữa, cả từ “đút” lẫn từ “rút”, tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. “Ðút” cái gì vào túi hay “rút” cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại.

Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần “-ÚT” khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. “Hút” là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. “Mút” cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác “hút” ở chỗ vật thể được “mút” thường là cái gì đặc. “Trút” là đổ cái gì xuống. “Vút” là bay từ dưới lên trên. “Cút” là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. “Nút” hay “gút” là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. “Sút” là tuột, là suy, là giảm so với một điểm chuẩn nào đó.

Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. “Trụt” hay “tụt” là di chuyển từ trên xuống dưới. “Vụt” là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. “Lụt” là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. “Cụt” là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. “Ðụt” (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân.

Nếu những động từ có vần “-ÚT” thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần “-UN” lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. “Ùn”, “chùn”, “dùn”, hay “đùn” đều có nghĩa như thế. “Thun” hay “chun” cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. “Cùn” là bẹt ra. “Hùn” là góp lại. “Vun” là gom vào. “Lún” hay “lụn” là bẹp xuống. Cả những chữ như “lùn” hay (cụt) “lủn”, (ngắn) “ngủn”, “lũn cũn”... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại.

Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung.

Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. “Kẹt” là mắc vào giữa hai vật gì; “chẹt” là bị cái gì ép lại. “Dẹt” là mỏng và phẳng; “tẹt” là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); “bét” là nát, dí sát xuống đất; “đét” là gầy, mỏng và lép.

Những động từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: “chen”, “chẹn”, “chèn”, “len”, “men”, “nghẽn”, “nghẹn”, “nén”.
Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như “tức tối”, “bức bối”, “bực bội”, “nực nội”, “nhức nhối”, v.v...

Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng:

Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn.

Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ “thun lủn”, chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần “UN” vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ “dập dềnh”, chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v...

Học tiếng Việt, như vậy, không khó lắm, phải không?
Nguyễn Hưng Quốc
02/11/2009


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: Bí ẩn tiếng Việt: Vợ và chồng
Gửi bàiĐã gửi: 03 Tháng 11 2009, 00:33
Ngoại tuyến
Member II
Member II

Tuổi: 70
Sinh nhật: 01-12-1953
Ngày tham gia: 03 Tháng 12 2007, 05:30
Bài viết: 77
Quốc gia: Vietnam (vn)

Người tạo chủ đề
Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ “vợ chồng” đại khái như sau: “Chồng” là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ “vợ”? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: “chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?” (1)

Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái “vai”, người ta lại nói cái “bai”; thay vì nói đôi “vú”, người ta lại nói đôi “bụ”; thay vì nói “vải”, người ta lại nói “bải”; thay vì nói “vá” áo, người ta nói “bá” áo; thay vì nói “vả” (vào miệng) , người ta lại nói “bả” (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên uỷ của chữ “vợ” là... bợ? “Vợ chồng” thực ra là “bợ chồng”?

Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ “bái” sang tiếng Việt thành “vái”; chữ “bản” sang tiếng Việt thành “vốn” và “ván”; chữ “bích” sang tiếng Việt thành “vách”; chữ “biên” sang tiếng Việt thành “viền”; chữ “bố” sang tiếng Việt thành “vải”; chữ “bút” sang tiếng Việt thành “viết”; chữ “bà phạn” sang tiếng Việt thành “và cơm”, v.v...

Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo),(2) quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v...

Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V.

Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh).

Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau.

Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v...

Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ nhớn, nhời, và nhẽ.

Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả.

Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ “vợ” trong “vợ chồng” là “bợ” rất có khả năng gần với sự thật.

“Vợ chồng” như thế, thực chất là “bợ chồng”. “Bợ”: từ dưới nâng lên; “chồng”: từ trên úp xuống. Danh từ “bợ chồng” diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau.

Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ?

Chú thích:

1. Nguyễn Văn Trung (1989), Ngôn ngữ và thân xác, California: Xuân Thu, tr. 40. (In lần đầu tiên tại Sài Gòn năm 1968)
2. Nhà xuất bản Giáo Dục in ở Hà Nội vào năm 1997
3. Xem bài “Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ” của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80.


Nguyễn Hưng Quốc
27/10/2009


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: Re: Bí ẩn tiếng Việt: Cách xưng hô trong văn hoá Việt Nam
Gửi bàiĐã gửi: 04 Tháng 11 2009, 22:45
Ngoại tuyến
Member II
Member II

Tuổi: 70
Sinh nhật: 01-12-1953
Ngày tham gia: 03 Tháng 12 2007, 05:30
Bài viết: 77
Quốc gia: Vietnam (vn)

Người tạo chủ đề
Trong bài này, tôi chỉ muốn đi vào một khía cạnh: tất cả những sự phức tạp và lắt léo trong cách xưng hô tiết lộ điều gì trong văn hoá Việt Nam ?

Tôi nghĩ đến hai điều:

Thứ nhất, qua việc sử dụng hệ thống từ vựng chỉ thân tộc làm đại từ nhân xưng, người Việt Nam đã biến gia đình thành hệ quy chiếu của quan hệ xã hội. Người nào ngang tuổi ông bà mình thì tự động trở thành “ông”, “bà”; người nào ngang tuổi chú bác cô dì thì tự động trở thành “chú”, “bác”, “cô”, “dì”; người nào ngang tuổi anh chị thì tự động biến thành “anh”, “chị”, v.v… Như thế, xã hội được xem như một gia đình mở rộng. Nền tảng của gia đình là huyết thống. Ðiều này, tôi nghĩ, giải thích tại sao người Việt không sử dụng một số từ như “vợ”, “chồng”, “dâu” và “rể” làm đại từ nhân xưng. Trước đây, đã có người nêu ý ấy. Cao Xuân Hạo phản bác: “thím” và “dượng” đâu khác gì “dâu” và “rể”? Cũng là những người ở ngoài huyết tộc cả thôi. Tuy nhiên, tôi nghĩ, những trường hợp này không giống hẳn nhau. “Thím” và “dượng” là những cách gọi từ những người thuộc vai cháu; trong khi “vợ”/“chồng” và đặc biệt, “dâu”/“rể” là những thuật ngữ được dùng bởi những người đang đứng ở vai trên: cha mẹ. Người thuộc vai dưới phải chấp nhận vị thế của người trên, trong khi đó, người bề trên có quyền khống chế người dưới: vợ chồng phải biến thành “anh”/“em”; dâu và rể phải biến thành “con”/“cháu” mới thực sự biến thành những thành viên ruột thịt trong gia đình.

Xem xã hội như một gia đình mở rộng cũng là một điều hay. Ừ, thì… hay. Nhưng dở, cũng lắm chuyện dở. Dở nhất, theo tôi, là với cách nhìn ấy, người Việt Nam rất khó xây dựng được một xã hội công dân thực sự, ở đó, tư cách mỗi người được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: luật pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, chỉ có một nơi duy nhất cách xưng hô dựa trên hệ thống từ thân tộc hoàn toàn bị loại bỏ: toà án. Nghĩ cũng phải chứ. Chẳng lẽ quan toà lại phán: “cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người có vũ khí.” hay: “Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội làm điếm.” Chẳng lẽ thế? Thế nhưng, tại sao trong các cơ quan công quyền khác, người ta lại cứ tiếp tục bác bác cháu cháu? Nghe, dễ tưởng là thân mật, thậm chí, dân chủ nữa, nhưng theo tôi, chính cái cách xưng hô như thế đã góp phần ngăn chận quá trình dân chủ hoá của Việt Nam: người xưng “bác” hay xưng “chú” có thể tiếp tục độc đoán và người xưng “cháu” tiếp tục chấp nhận những sự độc đoán ấy là những điều bình thường. Có thể nói, cách xưng hô như thế rất dễ làm triệt tiêu cảm giác phẫn nộ chính đáng của người dân khi đối diện với những sự bất công. Mà không có cảm giác phẫn nộ ấy thì sẽ không thể nào có được một xã hội công dân thực sự.

Thứ hai, cách xưng hô trong tiếng Việt cho thấy tính chất cụ thể trong ngôn ngữ và trong tư duy của người Việt. Chúng ta không hề có những khái niệm mang tính khái quát cao như các đại từ trong phần lớn các ngôn ngữ Tây phương: trong đối thoại, mỗi người, với tư cách cá nhân, đều thuộc một trong ba phạm trù: người phát ngôn (ngôi thứ nhất), người trực tiếp đón nhận việc phát ngôn (ngôi thứ hai); và người được đề cập đến trong nội dung của lời phát ngôn (ngôi thứ ba). Lấy tiếng Anh làm ví dụ: là kẻ phát ngôn thì ai cũng như nhau, cũng là “I” cả. Chuyện trò, tổng thống xưng “I” gọi “you” mà tên lính quèn cũng xưng “I” và gọi “you”. Trong tiếng Việt, chúng ta không có những khái niệm nào tương đương với những “I”, những “you” ấy. Hình như trong cách nhìn của nền văn hoá truyền thống Việt Nam, không có khái niệm cá nhân như một cái gì độc lập, chỉ được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: hành ngôn. Cá nhân chỉ được định nghĩa theo các quan hệ nhất định: với người này, hắn là “ông”, với người nọ, hắn là “cha”, với người kia, hắn là “anh”, với người khác nữa, hắn lại là “em”, v.v…

Thử nghe lời nói này:

Lẹ lẹ lên nào. Coi chừng trễ chuyến bay bây giờ. Nội, nội đưa cái dù cho cháu cầm cho; còn ba đưa cái xách cho con. Còn anh nữa, anh cứ ra xe trước đi để em khoá cửa cho. À này..., mấy đứa xem giùm mấy cái cửa sổ phía sau mẹ đã khoá kỹ chưa? Lẹ đi. Trời ơi!

Chỉ qua mấy câu nói ngắn như vậy, chúng ta thấy là người phụ nữ đang nói chuyện với bốn, năm người khác nhau. Với mỗi người, chị làm một cuộc hoá thân: Với ông hoặc bà nội, chị xưng là “cháu”; với ba, chị xưng là “con”; với chồng, chị xưng là “em”, và với mấy đứa con, chị xưng là “mẹ”. Như vậy, người phụ nữ ấy thực sự là ai? Câu trả lời: không là ai cả. Chúng ta chỉ có thể xác định chị khi đặt chị trong mối quan hệ với những người khác. Ðặc biệt, tất cả những quan hệ ấy đều tạm thời: chúng thay đổi xoành xoạch. Mỗi sự thay đổi đều dẫn đến sự thay đổi trong tư cách của người phát ngôn. Có thể nói, với người Việt Nam , mỗi lần chuyện trò là mỗi lần đóng một vai nhất định: đóng vai ông/bà, đóng vai cha/mẹ, đóng vai con/cháu, đóng vai anh/em, v.v… Ðã vậy, người Việt còn có thói quen thích đóng các vai… giả. Ví dụ, một người đàn ông 50 tuổi có thể gọi một người đàn ông lạ khoảng 30 tuổi là “bác” và xưng là “cháu”: người ấy đang nhập vào vai đứa con của ông để gọi người khách. Ở Việt Nam , người ta gọi cách xưng hô như thế là lối nói khiêm. Trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng hay nhập vai con để gọi người phối ngẫu: vợ sẽ không gọi chồng là “anh” mà là “bố thằng cu” hay “bố nó” hay, gọn hơn, chỉ là “bố” suông thôi. Ngược lại, nói chuyện với chồng, người vợ có thể không xưng “em” mà lại xưng là… “mẹ”, kiểu:

“Bố ơi, chiều nay bố có đi Footscray không?”

“Có. Mẹ có cần gì không?”

“Ờ, bố mua cho mẹ thùng xoài nghe.”

“Xoài gì mà xoài. Mới ăn tuần trước mà. Ăn xoài nhiều nóng lắm, đâu có bổ béo gì...”

“Trời ơi, nóng với niếc gì, bố mày sao nhiều chuyện quá. Mùa này xoài đang rẻ, cứ cho con ăn cho đã. Hết mùa thì tụi nó lại nhịn.”

“Mẹ mày cứ hay chiều con...”

Ngày xưa, đặc biệt ở miền quê hay trong thơ văn, người ta còn cố gắng tránh tất cả mọi vai cụ thể như thế: người ta chỉ gọi là “ai” và xưng là “ai” một cách hết sức bâng quơ. Thuý Kiều nói với Kim Trọng: “Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia / Ngoài ra, ai lại tiếc gì với ai.” Tản Ðà nói với người tình nhân không quen biết: “Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ / Ðể ai luống những nhớ ai hoài.” Thì cũng là những kiểu nhập vai giả, cái vai vô hình.

Nói chuyện là buộc phải đóng một vai nhất định. Do đó, trên nguyên tắc, bằng tiếng Việt, mọi cuộc đội thoại đều bất khả. Ðứng một mình, cá nhân sẽ không là gì cả. Mà đối thoại, nhất là tranh luận, cũng khó. Tôi đã chứng kiến, trong các cuộc họp hành, vô số những cuộc cãi cọ bằng tiếng Anh rất gay gắt. Cãi kịch liệt. Cãi đến nơi đến chốn. Thế nhưng, sau buổi họp, đâu lại vào đấy, mọi người lại là bạn bè, lại chuyện trò hoà nhã với nhau, như không hề có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, cũng những người ấy, khi cãi với nhau bằng tiếng Việt thì lại khác. Khác hẳn. Ngay khi đang cãi cọ, người ta đã có thể linh cảm được là có cái gì đó đang đổ vỡ. Tại sao? Lý do chính, tôi đoán, chủ yếu là ở… tiếng Việt.

Mà thật. Cãi với nhau bằng tiếng Anh, mọi người đều bình đẳng ngay từ đầu: ai cũng là “I” và “you”. Từ vị thế bình đẳng ấy, người ta có thể an tâm tập trung vào lý luận để giành thắng lợi trong lý luận và bằng lý luận. Cãi với nhau bằng tiếng Việt thì khác. Từ khởi sự, đã có cái gì như không bình đẳng và cũng không sòng phẳng: người lớn tuổi hơn thì xưng “bác” hay “anh”, do đó, từ tiềm thức, đã mơ hồ cảm thấy mình đang ở thế bề trên, thế đàn anh; người trẻ hơn, ngược lại, phải xưng “cháu” hoặc “em”, do đó, cũng tự trong tiềm thức, đã có chút mặc cảm yếu thế. Ðể bù lấp cái mặc cảm yếu thế ấy, những người trẻ hơn, ngoài lý luận, thường tự động sử dụng một số biện pháp khác: khuôn mặt đanh lại một chút, giọng nói to lên một chút, giọng điệu chì chiết hơn một chút, chữ nghĩa nặng nề hơn một chút. Có khi người ta đổi cả cách xưng hô: bình thường thì anh anh em em; khi cãi nhau thì anh/chị với tôi. Ðối với những người tự đặt mình ở vị thế cha, chú, anh, chị… tất cả những điều ấy đều dễ dàng gây thương tổn. Nghe chữ “tôi” từ miệng một người vốn thường xưng “em” với mình, người ta dễ có cảm tưởng như bị hạ bệ hay bị phản bội. Cảm giác “đổ vỡ” không chừng xuất phát từ đó.

Cảm giác ấy càng rõ hơn khi vợ chồng cãi nhau. Bắt đầu cãi, đang tức, người vợ phải xưng “em”, càng dễ thấy… tức hơn. Cảm thấy như mình bị xử ép. Càng dễ bù lu bù loa hơn nữa. Vẫn thấy bị ép. Cứ phải xưng “em” là lại thấy bị ép. Bèn đổi thành “tôi” cho... ngang cơ. Chồng, chưa cần biết vợ nói đúng hay sai, chỉ cần nghe chữ “tôi” bất bình thường ấy, đã đùng đùng nổi giận, có cảm giác là vợ mình… hỗn láo, đòi đảo chánh… mình. Tôi tuyệt đối chống lại mọi hình thức bạo hành, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, nhưng tôi tin là tôi hiểu được lý do gì đã thúc đẩy nhiều gã đàn ông, trong những trường hợp như thế, đã không tự kìm chế được, phải vung tay lên: cái hắn muốn đánh, trước hết, là chữ. Chữ, chứ không phải là người.

Dĩ nhiên, cái gì cũng có mặt trái và mặt phải của nó. Tôi có người bạn lấy vợ Úc. Một lần, trong câu chuyện, anh buột miệng, nói: “Nghe vợ chồng người Việt Nam gọi nhau bằng anh em, nghe ‘đã’ dễ sợ!” Hồi nhỏ, nghe ba mẹ tôi gọi nhau bằng “mình”, tôi cũng có cảm giác “đã” tương tự. Vợ chồng tôi chưa bao giờ xưng “mình” với nhau, nhưng không hiểu tại sao, tôi cứ bị chữ “mình” ấy ám ảnh mãi. Một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra chữ “mình” ấy chứa đựng trong nó cả một triết lý về tình yêu của người Việt. Chứ còn gì nữa? Chúng ta đều hiểu ý nghĩa đầu tiên của chữ “mình” là bộ phận chính của thân thể. Trong những giờ vạn vật đầu tiên thời tiểu học, chúng ta đã học là thân thể người ta gồm ba phần: đầu, mình và chân tay. “Mình”, chiếm từ cổ xuống mông, là bộ phận lớn nhất của cơ thể, do đó, được đồng nhất với cơ thể: Nói “mình đầy mồ hôi” cũng là nói “cơ thể đầy mồ hôi”. Là toàn bộ cơ thể, “mình” biến thành “tôi”, ngôi thứ nhất số ít. Yêu nhau, khi hai biến thành một, người ta cho cái “mình” ấy cho người mình yêu: “mình” biến thành “em” hay “anh”, ngôi thứ hai số ít. Nhưng khi sự phân biệt giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai biến mất, khi “mình với ta tuy hai mà một”, “mình” tự động biến thành “chúng ta”, ngôi thứ nhất số nhiều. Như vậy, nếu dịch sang tiếng Anh, chỉ giới hạn trong phạm vi đại từ nhân xưng, chữ “mình”, tuỳ từng trường hợp, có thể là “I”, có thể là “you” và cũng có thể là “we”. Một chữ: ba ngôi.

Từ những sự biến nghĩa của chữ “mình”, chúng ta có thể loé thấy quan niệm của người Việt Nam về tình yêu và hôn nhân. Theo quan niệm đó, tình yêu không phải chỉ là một sự hoà nhập làm một; hai người yêu nhau không những chỉ thuộc về nhau. Đó là những quan niệm bình thường và quen thuộc ở khắp nơi. Với người Việt Nam, yêu nhau là đem cái chữ “mình” vốn chỉ cơ thể của mình tặng cho người mình yêu, là tự nguyện chuyển nhượng chủ quyền trên thân thể của mình cho người mình yêu, là dâng hiến cái mình của mình cho nhau. Hơn nữa, là biến người mình yêu thành cái “nhà”, thành không gian cư ngụ của mình: chỉ ở đó, người ta tồn tại.

Bởi vậy, riêng trong phạm vi xưng hô, nói tiếng Việt hay cũng được. Mà nói dở cũng được. Tôi không tin là, với tư cách người cầm bút, chúng ta có thể thay đổi được điều gì.

Viết bài này, tôi chỉ muốn gợi lên vài ý bâng quơ, vậy thôi

Nguyễn Hưng Quốc


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Tiêu đề bài viết: nguyên88 trân Re: Bí ẩn tiếng Việt: âm ÚT, UN, ÉT, ẸT, EN, ỨC - ỐI
Gửi bàiĐã gửi: 06 Tháng 11 2009, 16:50
Ngoại tuyến
Member II
Member II

Tuổi: 69
Sinh nhật: 01-01-1955
Ngày tham gia: 29 Tháng 8 2008, 15:43
Bài viết: 91
Quốc gia: Canada (ca)
Đúng ra thì ngôn ngữ nào cũng bí ẩn, nhưng mình là người Việt nên mình mới biết cái bí ẩn của nó
Thí dụ như: đập mạnh khác với đập mạnh mạnh, thêm vào chử mạnh thì nhẹ tay hơn ....hay là nghe 1 từ thì mình hình dung ra tình huống lúc đó, nó đi nghe xẹp xẹp thì mình hiểu là nó đang đi trên cỏ vừa ngập nước........
Mấy mươi năm không gặp, người bạn phương xa về gặp lại bạn củ nhưng muốn chứng minh cho nàng biết là Ta vẫn còn nghĩ đến nàng như xưa, chàng tự ca và thu vào CD bản nhạc:
Anh yêu em vào cỏi chết (Phạm Duy) tặng nàng, không quên căn dặn là tâm sự của Ta đó :
Anh vẫn biết, anh vẫn biết yêu em là tuyệt vọng .....mà vì sao, mà vì sao, anh vẫn cứ yêu em.....
Ông xã nàng thấy nàng dạo nầy sao cứ nghe headphone hoài, đâm ra hoài nghi. Một hôm nàng đi vắng, ông xã ở nhà nghe thử và ông mới biết tại sao ??? Ông lấy dao gạch trầy cái CD, gạch xong ông còn đưa cho cháu ngoại chơi( cái nầy mới ác, có gì đổ thừa cho cháu ngoại) nàng về thất cái CD bị trầy, để vào máy hát thử, ông đứng từ xa theo dỏi và cười mím chi (hư rồi) nhưng ngạc nhiên vì nàng nghe hoài, càng nghe nàng càng thích ......ông đâm bực, nàng đi vắng ông lại nghe thử :
Trời ơi cái CD mà ông phá hư đó.....nó cà lăm, mà cà lăm ở cái đoạn.....Anh yêu em, anh yêu em ......bạch.... bạch .........Anh yêu em, anh yêu em....xẹp ....xẹp.....đúng là bí ẩn hahahaha....


Đầu trang
Xem thông tin cá nhân
Hiển thị những bài viết cách đây: Sắp xếp theo
Tạo chủ đề mới Gửi bài trả lời [ 4 bài viết ] [ 0 tập tin đính kèm ]

» Bí ẩn tiếng Việt: âm ÚT, UN, ÉT, ẸT, EN, ỨC - ỐI «


Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 2 khách


Bạn không thể tạo chủ đề mới trong chuyên mục này
Bạn không thể trả lời bài viết trong chuyên mục này
Bạn không thể sửa những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể xoá những bài viết của mình trong chuyên mục này
Bạn không thể gửi tập tin đính kèm trong chuyên mục này

Tìm kiếm với từ khoá:
Chuyển đến:

Ai đang trực tuyến?

Ai đang trực tuyến? Trong tổng số 2 người đang trực tuyến: không có thành viên, không có thành viên ẩn và 2 khách
Số lượt người ghé thăm website đông nhất là 229 vào ngày 24 Tháng 6 2024, 14:08

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến và 2 khách

Thông tin trên được cập nhật trong vòng 5 phút vừa qua
cron
Powered by phpBBVietNam © 2006 - 2007 phpBBVietNam Group based on phpBB
Vietnamese translation by nedka
Founded by tranbc | Content © Trường Trung Học Công Lập Tân Châu